Khái niệm, giải thích và các tài liệu cần có của đơn đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa

Trong bài viết này, xin giấy phép sẽ tư vấn và giới thiệu cho quy khách hàng về thủ tục và quy trình đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay:

Mục lục bài viết

1. Thủ tục, hồ sơ đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa

Nhãn hiệu hàng hóa là những dấu hiệu của một doanh nghiệp (hoặc tập thể các doanh nghiệp)dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các doanh nghiệp khác. Cách thức đăng ký bảo hộ tại nhãn hiệu tại Việt Nam:

1. Khái niệm, giải thích Nhãn hiệu hàng hóa

Nhãn hiệu hàng hóa là những dấu hiệu của một doanh nghiệp (hoặc tập thể các doanh nghiệp) dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các doanh nghiệp khác.

“Nhãn hiệu” là thuật ngữ để chỉ chung và nhãn hiệu dịch vụ.

Dấu hiệu dùng làm nhãn hiệu có thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc từ ngữ kết hợp với hình ảnh được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc.

Với chức năng của công cụ marketing – truyền đạt tới người tiêu dùng uy tín của sản phẩm dịch vụ mang nhãn hiệu được hình thành bởi trí tuệ mà doanh nghiệp đầu tư cho sản phẩm dịch vụ đó – nhãn hiệu được pháp luật coi là tài sản trí tuệ của doanh nghiệp.

Các tài liệu cần có của đơn

:

2. Các tài liệu cần có của đơn đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa

2.1. Tài liệu tối thiểu

(a) 02 Tờ khai đăng ký theo mẫu số 04-NH, Phụ lục A của ;

(b) Mẫu nhãn hiệu và danh mục hàng hoá,dịch vụ mang nhãn hiệu;

(c) Chứng từ nộp phí,lệ phí.

2.2. Đối với đơn đăng ký nhãn hiệu tập thể,nhãn hiệu chứng nhận

Ngoài các tài liệu quy định trên đây,đơn còn bắt buộc phải có thêm các tài liệu sau đây:

(a) Quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể/nhãn hiệu chứng nhận;

(b) Bản thuyết minh về tính chất,chất lượng đặc trưng (hoặc đặc thù) của sản phẩm mang nhãn hiệu (nếu nhãn hiệu được đăng ký là nhãn hiệu tập thể dùng cho sản phẩm có tính chất đặc thù hoặc là nhãn hiệu chứng nhận chất lượng của sản phẩm hoặc là nhãn hiệu chứng nhận nguồn gốc địa lý);

(c) Bản đồ xác định lãnh thổ (nếu nhãn hiệu đăng ký là nhãn hiệu chứng nhận nguồn gốc địa lý của sản phẩm).

3. Yêu cầu đối với đơn Nhãn hiệu hàng hóa

(a) Mỗi đơn chỉ được yêu cầu cấp một văn bằng bảo hộ;

(b) Mọi tài liệu của đơn đều phải được làm bằng tiếng Việt. Đối với các tài liệu được làm bằng ngôn ngữ khác theo quy định tại điểm 7.3 và điểm 7.4 của thì phải được dịch ra tiếng Việt;

(c) Mọi tài liệu của đơn đều phải được trình bày theo chiều dọc (riêng hình vẽ,sơ đồ và bảng biểu có thể được trình bày theo chiều ngang) trên một mặt giấy khổ A4 (210mm x 297mm),trong đó có chừa lề theo bốn phía,mỗi lề rộng 20mm,trừ các tài liệu bổ trợ mà nguồn gốc tài liệu đó không nhằm để đưa vào đơn;

(d) Đối với tài liệu cần lập theo mẫu thì bắt buộc phải sử dụng các mẫu đó và điền đầy đủ các thông tin theo yêu cầu vào những chỗ thích hợp;

(e) Mỗi loại tài liệu nếu bao gồm nhiều trang thì mỗi trang phải ghi số thứ tự trang đó bằng chữ số Ả-rập:

(g) Tài liệu phải được đánh máy hoặc in bằng loại mực khó phai mờ,một cách rõ ràng,sạch sẽ,không tẩy xoá,không sửa chữa; trường hợp phát hiện có sai sót không đáng kể thuộc về lỗi chính tả trong tài liệu đã nộp cho Cục Sở hữu trí tuệ thì người nộp đơn có thể sửa chữa các lỗi đó,nhưng tại chỗ bị sửa chữa phải có chữ ký xác nhận (và đóng dấu,nếu có) của người nộp đơn;

(h) Thuật ngữ dùng trong đơn phải là thuật ngữ phổ thông (không dùng tiếng địa phương,từ hiếm,từ tự tạo). Ký hiệu,đơn vị đo lường,phông chữ điện tử,quy tắc chính tả dùng trong đơn phải theo tiêu chuẩn Việt Nam;

(i) Đơn có thể kèm theo tài liệu bổ trợ là vật mang dữ liệu điện tử của một phần hoặc toàn bộ nội dung tài liệu đơn.

Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng! Trân trọng./.

>> Tham khảo dịch vụ pháp lý liên quan:

2. Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa đối sản phẩm may mặc ?

Thưa luật sư, Tôi muốn hỏi: Xưởng may của tôi dự kiến sản xuất một loại túi xách và đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa cho sản phẩm. Vậy, pháp luật quy định về lĩnh vực này như thế nào; để biết nhãn hiệu hàng hóa dự định sử dụng đã có ai đăng ký bảo hộ chưa, tôi cần làm gì?

Cảm ơn!

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa ?

Trả lời

Vấn đề trên thuộc sở hữu trí tuệ, một lĩnh vực mới mẻ, khá trừu tượng đối với nhiều bạn đọc và cơ sở sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, pháp luật đã có quy định cụ thể, theo Luật Sở hữu trí tuệ (SHTT) (được Quốc hội khóa XI thông qua ngày 29-11-2005), nhãn hiệu hàng hóa là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái hoặc chữ số, từ ngữ, hình ảnh hoặc hình vẽ, hình khối (3 chiều) hoặc sự kết hợp các yếu tố đó; là dấu hiệu dùng để nhận biết hàng hóa hoặc dịch vụ của một cơ sở kinh doanh, giúp phân biệt chúng với hàng hóa hoặc dịch vụ của các cơ sở kinh doanh khác; là dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm hoặc dịch vụ của các thành viên thuộc một hiệp hội với sản phẩm hoặc dịch vụ của các cơ sở không phải là thành viên của hiệp hội đó.

Để được hưởng quyền đối với nhãn hiệu hàng hóa, tổ chức, cá nhân kinh doanh phải làm “Đơn xin cấp giấy chứng nhận ” và nộp tại Cục SHTT thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ. Đơn phải tuân thủ hình thức, nội dung theo quy định của pháp luật về nhãn hiệu hàng hóa. Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hóa sẽ được cấp nếu đơn được trình bày theo đúng quy định, nhãn hiệu hàng hóa trong đơn thỏa mãn các tiêu chuẩn bảo hộ, người nộp đơn đã nộp đủ các khoản lệ phí. Phạm vi, nội dung, thời hạn bảo hộ quyền đối với nhãn hiệu hàng hóa được xác định theo giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hóa được cấp. Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hóa có hiệu lực từ ngày cấp đến hết 10 năm tính từ ngày nộp đơn hợp lệ và có thể được gia hạn nhiều lần, mỗi lần 10 năm.

Một nhãn hiệu hàng hóa dùng cho một sản phẩm, dịch vụ nhất định chỉ thuộc về một chủ thể duy nhất là người nộp đơn đăng ký đầu tiên. Để biết nhãn hiệu hàng hóa dự kiến đã có chủ sở hữu, hoặc đã có người nộp đơn đăng ký bảo hộ hay chưa, cá nhân, tổ chức có thể tự tra cứu thông tin trên các nguồn sau đây: Công báo Sở hữu công nghiệp do Cục SHTT phát hành hàng tháng; Đăng bạ quốc gia và đăng bạ quốc tế về nhãn hiệu hàng hóa (lưu giữ tại Cục SHTT); Cơ sở dữ liệu điện tử về nhãn hiệu đã đăng ký trực tiếp tại Việt Nam do Cục SHTT công bố trên mạng internet ( www.noip.gov.vn); Cơ sở dữ liệu điện tử về nhãn hiệu đã đăng ký vào Việt Nam theo thỏa ước Madrid, do Tổ chức SHTT thế giới (WIPO) công bố trên mạng internet (www.wipo.int) và có thể sử dụng dịch vụ tra cứu thông tin của Cục SHTT, hoặc yêu cầu cơ sở cung cấp dịch vụ SHTT tư vấn, giải đáp với điều kiện nộp phí theo quy định.

Dịch vụ đăng ký nhãn hiệu độc quyền.

Quý khách hàng có nhu cầu sử dụng dịch vụ vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi: CÔNG TY LUẬT TNHH MINH KHUÊ

Điện thoại yêu cầu dịch vụ luật sư Sở hữu trí tuệ, gọi:

Gửi thư tư vấn hoặc yêu cầu dịch vụ qua Email:

Rất mong nhận được sự hợp tác của Quý khách hàng! Trân trọng./.

3. Tư vấn bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa (Thương hiệu) trong hội nhập kinh tế quốc tế

Sở hữu trí tuệ là một loại tài sản vô hình được tạo nên bởi trí tuệ của con người và được pháp luật bảo hộ.

I. Một số vấn đề chung về bảo hộ sở hữu công nghiệp

1. Định nghĩa về sở hữu trí tuệ:

Sở hữu trí tuệ có hai phần:

– Quyền tác giả (bản quyền): bao gồm quyền đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, xã hội… (trong luật Việt Nam và nhiều nước khác, bao gồm cả phần mềm máy tính).

– Sở hữu công nghiệp: bao gồm:

+ Sáng chế: là giải pháp kỹ thuật mới so với trình độ kỹ thuật trên thế giới, có trình độ sáng tạo, có khả năng áp dụng trong lĩnh vực kinh tế, xã hội.

+ Giải pháp hữu ích: là giải pháp kỹ thuật mới so với trình độ kỹ thuật trên thế giới, có khả năng áp dụng trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội.

+ Kiểu dáng công nghiệp: là hình dáng bên ngoài của sản phẩm được thể hiện bằng đường nét, hình khối, màu sắc hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, có tính mới đối với thế giới và có thể dùng làm mẫu để chế tạo sản phẩm công nghiệp hoặc thủ công nghiệp.

+ Nhãn hiệu hàng hoá (thương hiệu): là những dấu hiệu bằng từ, ngữ, hình ảnh hoặc kết hợp các yếu tố đó dùng để phân biệt hàng hoá hay dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất, kinh doanh khác nhau.

+ Tên gọi xuất xứ hàng hoá: là tên địa lý của nước, vùng, địa phương dùng để chỉ xuất xứ của mặt hàng từ nước, địa phương đó với điều kiện những hàng hoá này phải có tính chất, chất lượng đặc thù dựa trên các điều kiện địa lý độc đáo và ưu việt, bao gồm yếu tố tự nhiên, con người hoặc kết hợp cả hai yếu tố trên.

+ Các đối tượng khác

2. Vai trò của bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp

– Bảo hộ sáng chế, giải pháp hữu ích thúc đẩy việc sáng tạo các sáng chế mới. Hàng chục triệu sáng chế đã được tạo ra và được bảo hộ làm cho nền khoa học, công nghệ của thế giới có diện mạo như ngày hôm nay, tạo nên một xã hội loài người văn minh về mọi mặt.

– Bảo hộ các đối tượng là nhãn hiệu hàng hoá (thương hiệu), kiểu dáng công nghiệp, tên gọi xuất xứ tạo nên một công cụ hữu hiệu cho các doanh nghiệp quảng bá và lưu thông hàng hoá một cách hữu hiệu trên thị trường cũng như bảo vệ và phát triển thị phần của mình, đảm bảo một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm liên tục phát triển nền kinh tế.

– Bảo hộ sở hữu công nghiệp đầy đủ và hiệu quả là cơ sở để chúng ta tham gia các sân chơi lớn, là các thị trường song phương, khu vực và toàn cầu, thu hút đầu tư và công nghệ nước ngoài nhằm phát triển kinh tế. Bảo hộ sở hữu công nghiệp đã trở thành một cam kết quan trọng mà chúng ta phải thực hiện trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.

3. Khái quát tình hình bảo hộ sở hữu công nghiệp ở Việt Nam

– Hệ thống pháp luật về sở hữu công nghiệp

Khung pháp luật về sở hữu công nghiệp ở Việt nam với nền tảng là Chương 2 Phần thứ 6 của Bộ luật Dân sự (1995) cùng với các nghị định thông tư hướng dẫn đã được các cấp ban hành đã tạo nên một khung pháp lý về sở hữu công nghiệp tương đối đầy đủ gần đáp ứng các yêu cầu của Hiệp định TRIPS của WTO.

Việt Nam hiện nay là thành viên của một loạt công ước quốc tế về sở hữu công nghiệp, tạo điều kiện để Việt Nam đáp ứng các nhu cầu về hội nhập.

– Công tác đăng ký xác lập quyền

Hiện nay hàng năm Cục Sở hữu công nghiệp nhận được khoảng 12.000 đơn đăng ký các đối tượng sở hữu công nghiệp khác nhau từ người Việt Nam và hơn 100 nước trên thế giới. Trong đó khoảng hơn 1.000 đơn xin đăng ký sáng chế và giải pháp hữu ích, hơn 1.000 đơn xin đăng ký kiểu dáng công nghiệp và gần 10.000đơn xin đăng ký nhãn hiệu hàng hoá.

Tính đến nay ta đã cấp gần 3.000 Bằng độc quyền sáng chế (Việt Nam: 8%, nước ngoài: 92%); gần 7.000 Bằng độc quyền Kiểu dáng công nghiệp (Việt nam 91%, nước ngoài :9%); hơn 95.000 đăng ký nhãn hiệu hàng hoá (Việt Nam: 16%, nước ngoài: 84%) và 3 tên gọi xuất xứ hàng hoá (Việt Nam: 2, nước ngoài: 1).

– Công tác thực thi quyền và xử lý vi phạm

Chúng ta đã có một hệ thống các cơ quan thực thi quyền sở hữu công nghiệp, có các chế tài từ hành chính, dân sự và hình sự. Công tác thực thi quyền đã đạt được những kết quả nhất định, tuy vậy hiệu quả của công tác này vẫn còn thấp, tình hình vi phạm quyền sở hữu công nghiệp và sản xuất, buôn bán hàng giả vẫn diễn biến phức tạp. Chúng ta đang nỗ lực để tăng cường tính hiệu quả của công tác thực thi quyền.

– Ý thức của xã hội về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp vẫn còn thấp. Sự thiếu hiểu biết về sở hữu công nghiệp không chỉ trong quần chúng mà cả trong các cơ quan quản lý và đặc biệt trong giới doanh nghiệp. Có một mâu thuẫn là các doanh nghiệp nhà nước lại ít ý thức về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp hơn các doanh nghiệp tư nhân, và các tổng công ty lớn lại kém hơn các công ty nhỏ. Các thiếu sót này đã tạo ra những khó khăn cho các doanh nghiệp từ nhiều năm nay và đặc biệt trong giai đoạn bắt đầu hội nhập như hiện nay. Một trong những đối tượng sở hữu công nghiệp mà các doanh nghiệp dễ dàng động chạm và phải quan tâm nhất hiện nay, đó là nhãn hiệu hàng hoá (thương hiệu).

II. Bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa ở Việt Nam và ở nước ngoài

1. Nhãn hiệu hàng hoá là gì?

– Nhãn hiệu hàng hoá là một khái niệm được sử dụng văn bản và thực tiễn luật pháp Việt Nam, nó tương đương với khái niệm tiếng Anh trong là “Trade Mark”, vì vậy trên một số phương tiện thông tin đại chúng hoặc sách, báo người ta còn gọi là “thương hiệu”.

– Nhãn hiệu hàng hoá, theo luật Việt Nam và quốc tế là các dấu hiệu bằng chữ, hình hoặc kết hợp, có tính đặc trưng cao, dùng để phân biệt hàng hoá cùng loại của các cơ sở sản xuất khác nhau.

– Không nên nhầm lẫn nhãn hiệu hàng hoá (thương hiệu) với nhãn hàng hoá(ê-ti-két) trong Nghị định 178/CP, vì nhãn hiệu hàng hoá chỉ là các dấu hiệu độc đáo, có tính phân biệt cao, còn nhãn hàng hoá là nhãn chứa nội dung (gồm 8 nội dung bắt buộc) mô tả một sản phẩm cụ thể nào đó. Cũng không nên nhầm lẫn nhãn hiệu hàng hoá (thương hiệu) với tên thương mại, vì tên thương mại (Trade Name) là khái niệm để chỉ tên đầy đủ của một doanh nghiệp khi thực hiện hoạt động kinh doanh của mình.

2. Các nhãn hiệu nào được đăng ký bảo hộ?

– Việc tạo ra nhãn hiệu bằng chữ, hình hoặc hình chữ kết hợp là theo lựa chọn của doanh nghiệp. Tuy vậy, cần nhớ rằng không phải tất cả những nhãn hiệu mình tạo ra đều được pháp luật bảo hộ.

– Một nhãn hiệu được chấp nhận bảo hộ nếu nó đáp ứng các quy định của pháp luật (Điều 6 Nghị định 63/CP quy định chi tiết về sở hữu công nghiệp). Cụ thể là:

+ không là các dấu hiệu khó nhận biết, dấu hiệu mang tính mô tả chung sản phẩm, dấu hiệu làm hiểu sai lệch về xuất xứ, tính chất, công dụng sản phẩm, dấu hiệu trái đạo đức xã hội, dấu hiệu là tên của tổ chức trong nước, quốc tế, tên các nhân vật nổi tiếng…

+ không trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với một nhãn hiệu của người khác đã được bảo hộ hoặc được nộp đơn xin đăng ký sớm hơn cho cùng loại sản phẩm.

3. Thủ tục đăng ký nhãn hiệu hàng hoá tại Việt Nam như thế nào?

Thủ tục đăng ký nhãn hiệu hàng hoá tại Việt Nam nói chung là không quá phức tạp, tuy nhiên do đây là thủ tục để xác lập một quyền đối với một tài sản sở hữu công nghiệp nên nó cũng đòi hỏi những thủ tục pháp lý nghiêm ngặt.

– Đơn xin đăng ký nhãn hiệu hàng hoá được khai theo mẫu quy định.

– Đơn có thể được nộp trực tiếp tại Cục Sở hữu công nghiệp, gửi bằng bưu điện, hoặc thông qua một Công ty dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp. Nếu có khó khăn trong khi lập đơn có thể liên hệ trực tiếp với Cục Sở hữu công nghiệp, hoặc nhờ sự trợ giúp của Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường địa phương, hoặc nhờ dịch vụ của một Công ty đại diện sở hữu công nghiệp.

– Việc nộp đơn kịp thời có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác lập quyền ưu tiên trong việc xem xét đăng ký nhãn hiệu. Tại Việt Nam cũng như ở đa số nước khác, quyền ưu tiên đăng ký cùng một nhãn hiệu, về nguyên tắc, được dành cho người nộp đơn sớm nhất (tại Hoa Kỳ, quyền ưu tiên được dành cho cả người nộp đơn sớm nhất và cả người sử dụng sớm nhất).

4. Quyền của chủ nhãn hiệu khi một nhãn hiệu được đăng ký bảo hộ.

– Khi Cơ quan Sở hữu công nghiệp xét thấy một nhãn hiệu đáp ứng các tiêu chuẩn pháp luật thì sẽ ra quyết định chấp nhận bảo hộ nhãn hiệu, chủ nhãn hiệu sẽ được cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hoá.

– Hiệu lực của Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hoá sẽ có giới hạn:

+ Trong vòng 10 năm (có thể tiếp tục gia hạn)

+ Trong vùng lãnh thổ của quốc gia đã cấp Giấy chứng nhận đó.

– Chủ Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hoá sẽ được độc quyền sử dụng nhãn hiệu hàng hoá đã đăng ký của mình, bao gồm:

Độc quyền sử dụng nhãn hiệu hàng hoá trên hàng hoá và trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, bao gồm cả trong hoạt động quảng cáo và nhập khẩu hàng hoá.

+ Chuyển nhượng nhãn hiệu cho người khác

+ Cho phép người khác sử dụng nhãn hiệu của mình thông qua các hợp đồng lixăng.

+ Yêu cầu các Cơ quan thực thi xử lý việc người khác vi phạm độc quyền đối với nhãn hiệu của mình.

5. Những điều doanh nghiệp cần chú ý khi đăng ký và bảo hộ nhãn hiệu ở nước ngoài

Do những hệ quả pháp lý như nêu ở trên, việc đăng ký bảo hộ kịp thời nhãn hiệu ở trong nước và nước ngoài là vô cùng quan trọng. Việc đăng ký nhãn hiệu ở trong nước sẽ tạo thành một “đăng ký gốc”, không chỉ giúp bảo hộ nhãn hiệu ở trong nước mà còn là một cơ sở quan trọng giúp ta đăng ký nhãn hiệu thuận lợi hơn tại một số thị trường nước ngoài và nhất là khi có tranh chấp về nhãn hiệu ở đó.

Việc chiếm đoạt nhãn hiệu của nhau ở nước ngoài là một việc thường xẩy ra trên bình diện quốc tế. Một khi nhãn hiệu không được đăng ký kịp thời ra nước ngoài mà để cho người khác chiếm đoạt mất thì những hậu quả mà doanh nghiệp có thể gặp phải là:

– Nếu hàng chưa xuất vào thị trường đó, thì việc xuất hàng sẽ không thực hiện được, doanh nghiệp phải thay đổi nhãn hiệu và chi phí tiếp thị mới.

– Nếu hàng đang xuất tại thị trường đó, chỉ chủ nhãn hiệu sẽ có thể yêu cầu pháp luật can thiệp và hàng hoá nhập khẩu có thể bị bắt giữ, chủ bị xử phạt và do đó mất luôn thị phần.

– Nếu nhãn hiệu chiếm đoạt ở những nước tiếp giáp xung quanh Việt Nam, thì có nguy cơ những người chiếm đoạt nhãn hiệu sẽ lợi dụng để sản xuất hàng giả đưa vào Việt Nam.

Thủ tục đăng ký nhãn hiệu ra nước ngoài

Việc đăng ký nhãn hiệu ra nước ngoài nói chung là phức tạp và tốn kém hơn việc đăng ký nhãn hiệu ở trong nước, tuy vậy do tầm quan trọng của việc bảo hộ nhãn hiệu ở nước ngoài nên các doanh nghiệp không nên ngại ngùng hoặc chậm trễ, bởi nếu không hậu quả sẽ không lường trước được.

Nếu biết tìm đúng địa chỉ, doanh nghiệp có thể thực hiện được việc đăng ký ra nước ngoài thuận lợi và ít tốn kém hơn.

– Đăng ký nhãn hiệu theo Thoả ước Madrid;

Việt Nam hiện nay là thành viên của Thoả ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu. Hiện nay có 53 quốc gia là thành viên của tổ chức này bao gồm các vùng lãnh thổ Đông và Tây Âu, các nước Singapore, Trung Quốc (kể cả Đài Loan). Thoả ước này do Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới (WIPO) quản trị.

+ Chủ nhãn hiệu chỉ cần dùng 1 đơn đăng ký quốc tế theo mẫu quy định, trong đó đánh dấu những nước thành viên mà mình muốn đăng ký nhãn hiệu và nộp thông qua Cục Sở hữu công nghiệp để chuyển cho WIPO.

+ Đơn đăng ký quốc tế nêu trên chỉ được thực hiện khi nhãn hiệu xin đăng ký quốc tế đã được đăng ký bảo hộ ở Việt Nam.

+ Đăng ký theo hệ thống này là rất đơn giản, tiện lợi (chỉ nộp một đơn duy nhất) và khả rẻ (nếu đăng ký ở nhiều nước một lúc có thể rẻ gấp 10 lần chi phí cho việc đăng ký trực tiếp tại từng nước).

+ Thời hạn xem xét đơn đăng ký quốc tế là trong vòng 1 năm. Nếu sự quan tâm của doanh nghiệp là các thị trường là thành viên của Thoả ước Madrid (như nêu trên) thì nên thực hiện việc đăng ký này.

– Đăng ký trực tiếp tại từng quốc gia:

Vì không phải là thành viên của Thoả ước Madrid, nên khi có nhu cầu đăng ký nhãn hiệu hàng hoá tại các nước khác như Hoa Kỳ, Nhật Bản, các nước ASEAN… doanh nghiệp cần phải thực hiện việc đăng ký trực tiếp tại từng quốc gia đó.

+ Thủ tục đăng ký tại các nước trên được tiến hành tại các Cơ quan sở hữu công nghiệp của các nước đó (Cục Patent và Nhãn hiệu Mỹ (USPTO), cơ quan Patent Nhật Bản (JPO), Cơ quan sở hữu trí tuệ Singapore (IPOS)…)

+ Để nộp đơn và làm thủ tục đăng ký doanh nghiệp có thể sử dụng đại diện hoặc chi nhánh của mình tại quốc gia đó, hoặc sử dụng các công ty đại diện sở hữu công nghiệp Việt Nam hoặc nước ngoài. Riêng đi với Cơ quan Patent và Nhãn hiệu Mỹ, có thể thực hiện việc nộp đơn trên mạng qua trang chủ của USPTO, tuy nhiên theo luật Mỹ người nộp đơn vẫn phải chọn một đại diện tại Mỹ để trao đổi thư từ với USPTO và thời gian cho thủ tục xem xét nhãn hiệu phải kéo dài khoảng 1 năm hoặc hơn nữa.

Những điều doanh nghiệp cần lưu ý khi nhãn hiệu của mình bị đăng ký ở nước ngoài:

Các doanh nghiệp khi có nhãn hiệu bị người khác đăng ký ở nước ngoài, cần tính toán, đánh giá, cân nhắc để chọn lựa phương án hành động phù hợp theo các hướng:

+ Mở vụ kiện để huỷ bỏ đăng ký của người kia. Vì luật pháp của nước nào cũng có những điều khoản chống lại hành vi đăng ký nhãn hiệu để trục lợi hoặc cạnh tranh không lành mạnh.

+ Chờ hết hạn cho phép (thường 3 đến 5 năm) mà người đăng ký nhãn hiệu không sử dụng nhãn hiệu đó để yêu cầu đình chỉ hiệu lực của nhãn hiệu theo luật pháp của nước đó.

+ Thương lượng với người đăng ký nhãn hiệu để nhượng lại đăng ký đó.

+ Chuyển sang sử dụng một nhãn hiệu khác, nếu nhãn hiệu thực tế chưa được sử dụng rộng rãi, chưa được biết đến trên thị trường đó.

Việc lựa chọn và thực hiện phương án đã lựa chọn chỉ có thể do chính doanh nghiệp có nhãn hiệu tiến hành, tất nhiên có thể tham vấn với các cơ quan quản lý sở hữu công nghiệp hoặc sử dụng dịch vụ của các tổ chức đại diện sở hữu công nghiệp, các luật sư…

(: Biên tập)

4. Thực tiễn áp dụng luật Sở hữu trí tuệ giải quyết tranh chấp nhãn hiệu hàng hóa

Ngày 7.11.1995, Khách sạn mini Phố Hội do ông H.N.T làm chủ, được Cục SHCN (nay là Cục SHTT) cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu với tên gọi Mini Hotel Phố Hội, có hiệu lực đến ngày 17.1.2005.

Tháng 11.2000, ông T làm thủ tục đăng ký thành lập Công ty TNHH Dịch vụ – Du lịch sinh thái Phố Hội (Công ty Phố Hội), Hội An và được Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Quảng Nam cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Đầu năm 2005, Công ty Phố Hội tiếp tục làm thủ tục xin phép gia hạn và sửa đổi nhãn hiệu. Trên cơ sở này, ngày 4.3.2005, Cục SHTT chấp thuận nội dung sửa đổi với nhãn hiệu mới là “Công ty TNHH Dịch vụ – Du lịch sinh thái Phố Hội”, đồng thời gia hạn đến ngày 17.1.2015.

Từ năm 1993, tại số 69 Phan Châu Trinh, Hội An, bà L.T.V đã mở quán cơm bình dân với tên gọi Quán ăn Phố Hội. Đến năm 1999, bà V làm thủ tục đăng ký và được cấp giấy phép thành lập doanh nghiệp tư nhân (DNTN). Theo quy định thì bà V phải treo bảng hiệu là DNTN “Phố Hội” tại các cơ sở kinh doanh đã được cấp phép, nhưng bà lại treo bảng hiệu “NHà HàNG PHố HộI II” tại số 38 Nhị Trưng B và “PHố HộI RESTAURANT” tại số 69 Phan Châu Trinh, cùng ở Hội An.

Mọi rắc rối về nhãn hiệu bắt đầu nảy sinh từ đây. Trong đó, đáng chú ý là ở cả hai bảng hiệu nêu trên, chữ “Phố Hội” đều có cách trình bày giống như chữ “PHố HộI” của Công ty Phố Hội – đã được bảo hộ độc quyền nhãn hiệu. Từ việc sử dụng trùng về dấu hiệu “Phố Hội”, nên ông T cho rằng, bà V đã vi phạm nhãn hiệu được Nhà nước bảo hộ của mình.

>>

Vì vậy, ông T đã có gửi đến các cơ quan chức năng của thành phố Hội An đề nghị giải quyết. Trên cơ sở khiếu nại của ông T, Thanh tra thành phố Hội An đã tiến hành kiểm tra và có kết luận: Bảng hiệu do DNTN Phố Hội trưng bày là vi phạm quyền SHCN của Công ty Phố Hội. Đồng thời, yêu cầu DNTN Phố Hội phải sửa đổi bảng hiệu để tránh gây thiệt hại cho Công ty Phố Hội. Thế nhưng, DNTN Phố Hội đã không thực hiện yêu cầu này.

Ngày 21.8.2006, UBND thành phố Hội An tổ chức cuộc họp với đại diện các cơ quan chức năng và hai doanh nghiệp liên quan đến vụ tranh chấp nhãn hiệu. Tại đây, UBND thành phố thống nhất cho phép Nhà hàng Phố Hội II được đăng ký nhãn hiệu “Phố Hội – Lê Bá Truyền’’ và yêu cầu bà V trong vòng 15 ngày phải hoàn tất thủ tục thay đổi nhãn hiệu trình Sở KH&CN xem xét, thẩm định. Sau đó, bà V hạ bảng hiệu cũ và treo bảng hiệu khác với tên: “NHà HàNG PHố HộI II Lê Bá TRUYềN” tại số 38 Nhị Trưng B, trong khi vẫn giữ nguyên bảng hiệu “PHố HộI RESTAURANT’ tại số 69 Phan Châu Trinh. Đến đây, ông T vẫn không hài lòng và tiếp tục khiếu kiện, đưa vụ việc ra tòa.

Tại phiên sơ thẩm do Tòa án Nhân dân tỉnh Quảng Nam mở ngày 14.3.2007, ông Lê Bá Truyền – đại diện cho DNTN Phố Hội thừa nhận, do không hiểu biết pháp luật cặn kẽ nên dẫn đến việc sử dụng nhãn hiệu Phố Hội trong khi đã có doanh nghiệp khác đăng ký độc quyền. Đồng thời, ông Truyền cũng chấp nhận bồi thường thiệt hại về kinh tế, nếu ông T có chứng từ hợp pháp. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử lại căn cứ vào biên bản cuộc họp ngày 21.8.2006 cho rằng, ông T – người đại diện pháp nhân cho Công ty Phố Hội đồng ý cho DNTN Phố Hội được sử dụng nhãn hiệu “Phố Hội” nên ra phán quyết cho DNTN Phố Hội tiếp tục được sử dụng nhãn hiệu “Phố Hội – Lê Bá Truyền”. Dĩ nhiên, phán quyết này không thỏa mãn yêu cầu của Công ty Phố Hội, nên ông T cho biết, sẽ tiếp tục khiếu nại.

(Nguồn: Báo Quảng Nam, ngày 22.3.2007, 21.9.2007)

Lời bình

1. Trước hết cần phải khẳng định dấu hiệu Phố Hội đã được Cục SHTT xác lập quyền cho Công ty Phố Hội từ tháng 11.1995. Công ty này có thay đổi loại hình doanh nghiệp và tiếp tục được xác lập quyền cho đến năm 2015. Như vậy, Công ty có quyền sử dụng dấu hiệu này và ngăn cấm người khác sử dụng dấu hiệu đã được bảo hộ của mình. Trong khi đó năm 1993, bà V đã mở quán cơm bình dân với tên gọi Quán ăn Phố Hội. Tuy nhiên, bà V không đăng ký để xác lập quyền đối với dấu hiệu Phố Hội để làm nhãn hiệu dịch vụ cho cơ sở của mình.

Theo nguyên tắc xác lập quyền sở hữu đối với nhãn hiệu, Cục SHTT sẽ ưu tiên cấp chứng nhận cho tổ chức/cá nhân nào đăng ký trước. Chính vì vậy, trong trường hợp này Công ty Phố Hội nộp đơn trước nên đã được Cục SHTT cấp giấy chứng nhận nhãn hiệu Phố Hội.

Nếu thực sự bà V đã sử dụng dấu hiệu Phố Hội cho cơ sở của mình từ năm 1993, trước ngày Công ty Phố Hội nộp đơn thì bà V có quyền đề nghị Cục SHTT xem xét.

2. Khi sự việc Công ty và DNTN cùng sử dụng dấu hiệu Phố Hội trên biển hiệu của mình, gây nên sự nhầm lẫn cho khách hàng, chủ thể quyền (trong trường hợp này là Công ty Phố Hội) có quyền yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền của thành phố Hội An xử lý hành vi xâm phạm quyền của DNTN Phố Hội đối với nhãn hiệu dịch vụ của mình. Trong trường hợp này, các cơ quan đó là: 1) Thanh tra Sở KH&CN có thẩm quyền xử lý các hành vi về SHCN xảy ra trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, khai thác, quảng cáo, lưu thông, trừ hành vi xảy ra trong xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa; 2) Chi cục Quản lý thị trường – có thẩm quyền xử lý các hành vi vi phạm về SHCN xảy ra trong lưu thông hàng hóa và kinh doanh thương mại trên thị trường.

UBND tỉnh Quảng Nam, UBND thành phố Hội An có thẩm quyền xử lý các hành vi vi phạm về SHCN xảy ra tại địa phương mà mức phạt, hình thức xử phạt, biện pháp xử lý áp dụng đối với hành vi đó vượt quá thẩm quyền của Thanh tra Sở KH&CN và Chi cục Quản lý thị trường. Như vậy, UBND không trực tiếp thụ lý các và yêu cầu xử lý xâm phạm quyền.

Như vậy, Thanh tra thành phố Hội An thụ lý, giải quyết và kết luận về nội dung đơn của Công ty Phố Hội tố cáo hành vi xâm phạm quyền của DNTN Phố Hội là chưa phù hợp với chức năng của mình.

3. Chính vì Thanh tra thành phố tiến hành giải quyết nên đã áp dụng quy trình giải quyết không phù hợp. Đó là tổ chức cuc họp do UBND thành phố Hội An chủ trì. Tại đây, UBND cho phép Nhà hàng Phố Hội II được đăng ký nhãn hiệu “Phố Hội – Lê Bá Truyền’’, và yêu cầu bà V trong vòng 15 ngày phải hoàn tất thủ tục thay đổi nhãn hiệu trình Sở KH&CN xem xét, thẩm định.

Luật SHTT và các văn bản kèm theo đã quy định rõ việc xâm phạm hay không xâm phạm các đối tượng SHCN là do các cơ quan có thẩm quyền quyết định. Việc sử dụng nhãn hiệu là quyền của tổ chức/cá nhân và họ đăng ký với Cục SHTT. Nếu đáp ứng các yêu cầu theo quy định của pháp luật về nhãn hiệu thì Cục cấp giấy chứng nhận. Pháp luật về SHTT không giao cho UBND các cấp quyền cho phép tổ chức/cá nhân được sử dụng dấu hiệu này hay dấu hiệu khác làm nhãn hiệu cho hàng hoá hay dịch vụ của mình.

Đối chiếu với các quy định của pháp luật SHTT, UBND thành phố Hội An cho phép bà V được sử dụng nhãn hiệu “Phố Hội – Lê Bá Truyền’’ mà không được sự chấp nhận của Công ty Phố Hội là không phù hợp. Đây là vụ xâm phạm quyền, tranh chấp sử dụng các dấu hiệu dùng làm nhãn hiệu giữa Công ty Phố Hội và DNTN Phố Hội. Vì vậy, hai bên có quyền tự thỏa thuận với nhau và không được trái pháp luật. Trong đó, Công ty Phố Hội đang được Nhà nước bảo hộ nhãn hiệu có quyền tự bảo vệ hoặc yêu các cơ quan có thẩm quyền bảo vệ tài sản trí tuệ của mình.

4. Vụ việc này phải dẫn đến phiên tòa sơ thẩm của Tòa án tỉnh và có thể còn phải đến phiên phúc thẩm của Tòa án Nhân dân Tối cao. Nguyên nhân là do Công ty Phố Hội chưa nắm vững các quy định của Luật SHTT và các văn bản hướng dẫn nên gửi đơn yêu cầu xử lý hành vi xâm phạm quyền không đúng địa chỉ. Cơ quan nhận đơn của Công ty cũng chưa quán triệt Luật SHTT nên thụ lý đơn không đúng chức năng và tham mưu cho UBND thành phố Hội An giải quyết không đúng quy định của Luật.

Từ các vấn đề trên cho thấy, việc nâng cao nhận thức pháp luật về SHTT cho doanh nghiệp, cơ quan nhà nước là rất cần thiết.

(: Tổng hợp)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *