Hành vi cạnh tranh không lành mạnh có vi phạm luật sở hữu trí tuệ không ?

Thế nào được xem là một hành vi cạnh tranh không lành manh ? Việc sử dụng thương hiệu giả mạo, nhái thương hiệu hoặc sản phẩm khi kinh doanh có vi phạm luật sở hữu trí tuệ không ? và một số vấn đề pháp lý liên quan khác sẽ được luật sư tư vấn và giải đáp cụ thể:

Mục lục bài viết

1. Cạnh tranh không lành mạnh có vi phạm luật sở hữu trí tuệ không ?

Thưa luật sư, xin hỏi: Khi nào một hành vi cạnh tranh không lành mạnh sẽ vi phạm cả luật cạnh tranh và luạt sở hữu trí tuệ ạ ? Cảm ơn!

Trả lời:

+ Thứ nhất, quy định về cạnh tranh không lành mạnh trong pháp luật về cạnh tranh:

Khoản 4 Điều 3 Luật Cạnh tranh năm 2004 quy định:

“Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng.”

Điều 39 nêu rõ các trường hợp như sau:

Điều 39. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh

Hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong Luật này bao gồm:

1. Chỉ dẫn gây nhầm lẫn;

2. Xâm phạm bí mật kinh doanh;

3. Ép buộc trong kinh doanh;

4. Gièm pha doanh nghiệp khác;

5. Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác;

6. Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh;

7. Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh;

8. Phân biệt đối xử của hiệp hội;

9. Bán hàng đa cấp bất chính;

10. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác theo tiêu chí xác định tại khoản 4 Điều 3 của Luật này do Chính phủ quy định.”

+ Thứ hai, quy định về cạnh tranh không lành mạnh trong pháp luật về sở hữu trí tuệ:

Quyền sở hữu công nghiệp là một trong những quyền sở hữu trí tuệ được pháp luật ghi nhận. Khoản 4 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định:

Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu quyền chống cạnh tranh không lành mạnh.”

Theo đó, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định: “Quyền chống cạnh tranh không lành mạnh được xác lập trên cơ sở hoạt động cạnh tranh trong kinh doanh” (điểm d khoản 3 Điều 6). Bên cạnh đó, về hành vi cạnh tranh không lành mạnh, Điều 130 Luật này nêu rõ các trường hợp như sau:

Điều 130. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh

1. Các hành vi sau đây bị coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh:

a) Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, hoạt động kinh doanh, nguồn gốc thương mại của hàng hoá, dịch vụ;

b) Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về xuất xứ, cách sản xuất, tính năng, chất lượng, số lượng hoặc đặc điểm khác của hàng hoá, dịch vụ; về điều kiện cung cấp hàng hoá, dịch vụ;

c) Sử dụng nhãn hiệu được bảo hộ tại một nước là thành viên của điều ước quốc tế có quy định cấm người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu sử dụng nhãn hiệu đó mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng là thành viên, nếu người sử dụng là người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu và việc sử dụng đó không được sự đồng ý của chủ sở hữu nhãn hiệu và không có lý do chính đáng;

d) Đăng ký, chiếm giữ quyền sử dụng hoặc sử dụng tên miền trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu, tên thương mại được bảo hộ của người khác hoặc chỉ dẫn địa lý mà mình không có quyền sử dụng nhằm mục đích chiếm giữ tên miền, lợi dụng hoặc làm thiệt hại đến uy tín, danh tiếng của nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý tương ứng.

2. Chỉ dẫn thương mại quy định tại khoản 1 Điều này là các dấu hiệu, thông tin nhằm hướng dẫn thương mại hàng hoá, dịch vụ, bao gồm nhãn hiệu, tên thương mại, biểu tượng kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng bao bì của hàng hoá, nhãn hàng hoá.

3. Hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại quy định tại khoản 1 Điều này bao gồm các hành vi gắn chỉ dẫn thương mại đó lên hàng hoá, bao bì hàng hoá, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch kinh doanh, phương tiện quảng cáo; bán, quảng cáo để bán, tàng trữ để bán, nhập khẩu hàng hoá có gắn chỉ dẫn thương mại đó.”

Như vậy, quyền chống cạnh tranh không lành mạnh là một trong những quyền thuộc quyền sở hữu công nghiệp và pháp luật về sở hữu trí tuệ cũng có những quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên, không phải mọi hành vi cạnh tranh không lành mạnh đều thuộc sự điều chỉnh của luật sở hữu trí tuệ, chỉ những hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp được liệt kê ở Điều 130 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) mới vi phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ (vi phạm cả luật cạnh tranh). Mặt khác, những hành vi cạnh tranh không lành mạnh nhưng không liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp (chẳng hạn như các hành vi được quy định từ khoản 3 đến khoản 10 Điều 39 Luật Cạnh tranh năm 2004 như đã nêu trên) sẽ chỉ bị coi là vi phạm luật cạnh tranh.

Ngoài các quy định nêu trên, khoản 3 Điều 198 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) cũng cho phép :

“Tổ chức, cá nhân bị thiệt hại hoặc có khả năng bị thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp dân sự quy định tại Điều 202 của Luật này và các biện pháp hành chính theo quy định của pháp luật về cạnh tranh.”

Theo đó, các biện pháp dân sự được Tòa án áp dụng để xử lý người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ quy định tại Điều 202 của Luật này là:

“1. Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm;

2. Buộc xin lỗi, cải chính công khai;

3. Buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự;

4. Buộc bồi thường thiệt hại;

5. Buộc tiêu huỷ hoặc buộc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với hàng hoá, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ với điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ.”

Không những vậy, hành vi cạnh tranh không lành mạnh về sở hữu trí tuệ sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về cạnh tranh (căn cứ khoản 3 Điều 211 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005; sửa đổi, bổ sung năm 2009).

Mọi vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: để được giải đáp.

Rất mong nhận được sự hợp tác! Trân trọng./.

2. Giới thiệu về viện khoa học sở hữu trí tuệ

Viện Khoa học sở hữu trí tuệ được Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ thành lập nhằm đóng góp phần nhỏ bé với toàn xã hội khắc phục những thiếu hụt nói trên cùng nhằm mục tiêu thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của Hệ thống sở hữu trí tuệ theo chiều sâu. Chức năng chính của Viện Khoa học sở hữu trí tuệ là nghiên cứu lý luận và đào tạo – bồi dưỡng nhân lực trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ.

LỜI GIỚI THIỆU CỦA VIỆN TRƯỞNG

Sau khi đạt tới mục tiêu đáp ứng các tiêu chuẩn của Hiệp định TRIRS, để cùng với các lĩnh vực khác góp sức đưa Việt Nam trở thành Thành viên của WTO, trên con đường tiếp tục phát triển, Hệ thống sở hữu trí tuệ của Việt Nam được đặt trước nhiều thách thức mới to lớn; Trong đó thách thức to lớn nhất, lâu dài và khó vượt qua nhất là bản thân nó phải chứng minh và thực hiện được vai trò tích cực, có đóng góp thực sự hiệu quả trong sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam.

Thể hiện vai trò tích cực và có đóng góp hiệu quả đối với việc phát triển kinh tế – xã hội là thách thức lớn nhất bởi đó là mục tiêu cao nhất và cuối cùng, là lý do tồn tại và phát triển của Hệ thống sở hữu trí tuệ. Đòi hỏi của chính công cuộc phát triển kinh tế – xã hội của Quốc gia là cội rễ của việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống đó chứ không phải là chỉ nhằm hướng ra bên ngoài hay vì sức ép của bên ngoài.

Nhưng, đạt được mục tiêu to lớn nói trên là việc khó khăn và lâu dài bởi bản thân Hệ thống sở hữu trí tuệ của Việt Nam còn thiếu nhiều thứ và để có những thứ đó là không dễ dàng và không phải trong ngày một ngày hai. Thiếu hụt lớn nhất hiện nay là sự thiếu hụt về nhân lực và về lý luận. Hầu như mọi bộ phận của Hệ thống sở hữu trí tuệ đều thiếu hụt trầm trọng những người có hiểu biết và kỹ năng về sở hữu trí tuệ. Đặc biệt, hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam – chủ thể quan trọng nhất của hoạt động sở hữu trí tuệ – đều chưa có người chăm lo cho tài sản trí tuệ của mình. Nhiều vấn đề lý luận then chốt về sở hữu trí tuệ còn là điều lạ lẫm. Nhiều sự kiện, vấn đề thực tiễn còn chưa được lý giải hoặc soi sáng. Những thứ đang có mới chỉ là những yếu tố pháp lý cơ bản mà chưa phải là tất cả mọi yếu tố để Hệ thống vận hành hữu hiệu. Cần nhớ rằng, để có những thứ đó, Việt Nam đã phải phấn đấu liên tục trong hơn 20 năm!

Viện Khoa học sở hữu trí tuệ được Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ thành lập nhằm đóng góp phần nhỏ bé với toàn xã hội khắc phục những thiếu hụt nói trên cùng nhằm mục tiêu thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của Hệ thống sở hữu trí tuệ theo chiều sâu. Chức năng chính của Viện Khoa học sở hữu trí tuệ là nghiên cứu lý luận và đào tạo – bồi dưỡng nhân lực trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ.

Về hoạt động nghiên cứu, Viện chủ trương kết hợp giữa việc tự nghiên cứu và giới thiệu hoặc ứng dụng các kết quả nghiên cứu của các cá nhân, tổ chức đồng nghiệp. Chúng tôi coi hữu ích và có khả năng ứng dụng thiết thực là tiêu chuẩn cao nhất cho các hoạt động tự nghiên cứu trong giai đoạn trước mắt. Bởi thế, nghiên cứu ứng dụng sẽ được coi là hướng nghiên cứu ưu tiên trong giai đoạn này. Chủ đề nghiên cứu được quan tâm sẽ là các khía cạnh kinh tế liên quan đến tài sản trí tuệ và các khía cạnh pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ.

Về hoạt động đào tạo và bồi dưỡng nhân lực, Viện đặt mối quan tâm hàng đầu đến việc xây dựng đội ngũ quản trị viên tài sản trí tuệ cho các doanh nghiệp Việt Nam. Để làm được việc đó, chúng tôi chủ trương phối hợp với các cơ quan quản lý và các doanh nghiệp từng bước xây dựng và hoàn thiện các chương trình bồi dưỡng lý luận và kỹ năng quản trị loại tài sản đặc biệt này, thí điểm tiến tới triển khai rộng rãi các chương trình đó. Mục tiêu kỳ vọng là đến khoảng năm 2015, về cơ bản các doanh nghiệp lớn và vừa của Việt Nam đều có cán bộ quản trị tài sản trí tuệ của riêng mình. Các đối tượng với các chương trình bồi dưỡng khác cũng sẽ là mối quan tâm của chúng tôi.

Ngoài nghiên cứu và đào tạo, Viện Khoa học sở hữu trí tuệ còn được giao một nhiệm vụ đặc biệt đó là tiến hành các hoạt động giám định về sở hữu công nghiệp phục vụ cho việc giải quyết và xử lý các vụ tranh chấp, vi phạm, xâm phạm về sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý… Đó là một nhiệm vụ đặc biệt bởi không những việc đưa ra các kết luận chuyên môn làm cơ sở để các cơ quan có thẩm quyền và các bên tranh chấp đưa ra các quyết định xử lý, giải quyết là một công việc phức tạp, đòi hỏi khả năng chuyên môn và thái độ khách quan cao mà còn bởi vì đây là mô hình lạ đối với thế giới.

Để thực hiện tốt ba chức năng trên, chúng tôi đặc biệt coi trọng việc xây dựng các mối quan hệ hợp tác, đối tác với các chuyên gia và các tổ chức khác. Đó là lý do của việc có nhiều chuyên gia trong danh sách cán bộ cộng tác viên của Viện Khoa học sở hữu trí tuệ.

Với nguồn lực và khả năng hạn chế, Viện Khoa học sở hữu trí tuệ sẽ cố gắng đặt ra các mục tiêu phù hợp và các giải pháp thích đáng để đạt các mục tiêu đó.

Chúng tôi hi vọng và tin tưởng rằng Viện Khoa học sở hữu trí tuệ sẽ có đóng góp thiết thực trong sự nghiệp chung phát triển và hoàn thiện Hệ thống sở hữu trí tuệ của Việt Nam.

TRỤ SỞ CỦA VIỆN KHOA HỌC SỞ HỮU TRÍ TUỆ

– Địa chỉ: Số 21 ngách 61/67 đường Trần Duy Hưng, quận Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam

– Số điện thoại: (84-4) 35563450, 35563451, 35563452

– Số fax: (84-4) 35563407

– Địa chỉ email: vkhshtt@vnn.vn; ipacademy@vipri.gov.vn

– Địa chỉ website: www.vipri.gov.vn

CHỨC NĂNG

Viện Khoa học sở hữu trí tuệ có ba chức năng chính

– Nghiên cứu khoa học về sở hữu trí tuệ

– Đào tạo – bồi dưỡng nhân lực về sở hữu trí tuệ

– Tư vấn – giám định về sở hữu công nghiệp

Chức năng nghiên cứu khoa học về sở hữu trí tuệ

Các hướng nghiên cứu chính:

(i) Các vấn đề kinh tế liên quan đến tài sản trí tuệ và quyền sở hữu trí tuệ (định giá, thương mại hóa các tài sản trí tuệ; tài sản trí tuệ trong kinh doanh, mua bán / sáp nhập / phá sản doanh nghiệp; thuế đối với tài sản trí tuệ);

(ii) Quản trị và marketing đối với tài sản trí tuệ;

(iii) Quản lý hoạt động sở hữu trí tuệ (trong doanh nghiệp và trong hành chính);

(iv) Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (cơ chế, khuynh hướng phát triển, toàn cầu hóa…);

(v) Lý luận và thực tiễn hoạt động giám định sở hữu trí tuệ.

Chức năng đào tạo – bồi dưỡng nhân lực cho hoạt động sở hữu trí tuệ

Các hoạt động chính:

(i) Xây dựng chương trình, tài liệu đào tạo / bồi dưỡng về sở hữu trí tuệ;

(ii) Tổ chức và phối hợp tổ chức các khóa đào tạo, hội nghị, hội thảo về sở hữu trí tuệ;

(iii) Tuyên truyền, phổ biến kiến thức về sở hữu trí tuệ.

Chức năng tư vấn – giám định về sở hữu trí tuệ

Các hoạt động chính:

(i) Tư vấn về chuyên môn, pháp luật về sở hữu trí tuệ;

(ii) Góp ý, phản biện các chính sách, quy định pháp luật về sở hữu trí tuệ;

(iii) Thực hiện giám định về sở hữu công nghiệp (sáng chế, kiểu dáng, nhãn hiệu…) phục vụ việc giải quyết tranh chấp và xử lý xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp.

NGÂN SÁCH

Viện Khoa học sở hữu trí tuệ (VIPRI) là tổ chức sự nghiệp công lập. Ngân sách hoạt động của Viện hình thành từ các nguồn sau:

– Nhà nước (Bộ Khoa học và Công nghệ) cấp nhằm bảo đảm hoạt động thường xuyên (trong giai đoạn nhất định) và theo nhiệm vụ được giao;

– Thu từ hoạt động của Viện (sự nghiệp, dịch vụ, hợp đồng…);

– Liên doanh, liên kết;

– Tài trợ.

Các khoản chi:

– Vận hành bộ máy;

– Lương;

– Bảo đảm hoạt động sự nghiệp, tiến hành dịch vụ.

Viện Khoa học sở hữu trí tuệ bắt đầu triển khai chức năng giám định về sở hữu công nghiệp

Từ ngày 15/7/2009 Viện Khoa học sở hữu trí tuệ chính thức tiếp nhận và giải quyết các đơn yêu cầu/trưng cầu giám định về sở hữu công nghiệp.

Sau một thời gian chuẩn bị và làm các thủ tục cần thiết, ngày 17/6/2009 Cục Sở hữu trí tuệ đã cấp Giấy chứng nhận Tổ chức đủ điều kiện hoạt động giám định sở hữu công nghiệp cho Viện Khoa học sở hữu trí tuệ. Danh sách giám định viên (được Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ cấp Thẻ giám định viên) của Viện gồm có các ông: Vũ Khắc Trai (giám định viên về sáng chế và thiết kế bố trí mạch tích hợp), Phạm Đình Chướng (giám định viên về sáng chế, thiết kế bố trí mạch tích hợp, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý). Viện Khoa học sở hữu trí tuệ là tổ chức đầu tiên và duy nhất hiện nay có đủ điều kiện hoạt động giám định về sở hữu công nghiệp tại Việt Nam.

Trên cơ sở đó, bắt đầu từ ngày 15/7/2009 Viện Khoa học sở hữu trí tuệ tiếp nhận và giải quyết các đơn yêu cầu/trưng cầu giám định về sáng chế, thiết kế bố trí mạch tích hợp, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý. Các thông tin chi tiết về vấn đề này được giới thiệu tại mục “Tư vấn – Giám định” của trang web này.

LÀM RÕ CÁCH TÍNH PHÍ GIÁM ĐỊNH NHANH

Theo yêu cầu của nhiều cá nhân, tổ chức: nhằm làm thuận tiện cho việc tính mức phí tăng thêm trong trường hợp rút ngắn thời hạn giám định (giám định nhanh), Viện Khoa học sở hữu trí tuệ xin được làm rõ cách tính phí giám định nhanh như sau:

Giám định nhanh (thời hạn giám định rút ngắn – theo yêu cầu – so với thời hạn giám định trung bình)

Thời gian giám định thực

(theo yêu cầu của người nộp đơn)

Mức rút ngắn thời hạn

Mức phí tăng thêm

Sáng chế, Giải pháp hữu ích

Các đối tượng khác

02 tháng

01 tháng

0-20%

0%

42 ngày – 50 ngày

21 ngày – 24 ngày

21% – dưới 30%

25%

36 ngày – 41 ngày

18 ngày – 20 ngày

30% – dưới 40%

35%

30 ngày – 35 ngày

15 ngày – 17 ngày

40% – dưới 50%

45%

24 ngày – 29 ngày

12 ngày – 14 ngày

50% – dưới 60%

55%

18 ngày – 23 ngày

9 ngày – 11 ngày

60% – dưới 70%

65%

12 ngày – 17 ngày

6 ngày – 8 ngày

70% – dưới 80%

75%

Dưới 12 ngày

Dưới 6 ngày

80% – dưới 90%

85%

Trong đó, thời hạn giám định trung bình theo tiêu chuẩn (ứng với mức phí ghi trong Biểu giá) là 02 tháng đối với sáng chế và 01 tháng đối với các đối tượng khác; thời gian giám định thực: được tính từ ngày làm việc tiếp theo ngày ghi trên Dấu nhận đơn giám định đến ngày ký Bản kết luận giám định.

CHÍNH SÁCH NGHIÊN CỨU VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ

  • Viện Khoa học sở hữu trí tuệ chủ trương kết hợp việc tự nghiên cứu và giới thiệu hoặc ứng dụng các kết quả nghiên cứu của các cá nhân, tổ chức khác.
  • Tiêu chuẩn và mục đích cao nhất mà Viện hướng tới trong hoạt động nghiên cứu là tính hữu ích và khả năng ứng dụng thiết thực của các sản phẩm nghiên cứu. Trước mắt, nghiên cứu ứng dụng được coi là hướng nghiên cứu ưu tiên.
  • Chủ đề (nội dung) nghiên cứu được quan tâm: (i) Các khía cạnh kinh tế liên quan đến tài sản trí tuệ (định giá, thương mại hóa tài sản trí tuệ; tài sản trí tuệ trong kinh doanh, mua bán / sáp nhập / phá sản doanh nghiệp; thuế đối với tài sản trí tuệ); (ii) Quản trị và marketing đối với tài sản trí tuệ; (iii) Quản lý hoạt động sở hữu trí tuệ trong doanh nghiệp và hành chính; (iv) Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (cơ chế, khuynh hướng phát triển, toàn cầu hóa); (v) Các vấn đề liên quan đến hoạt động giám định sở hữu trí tuệ (mô hình tổ chức, các hoạt động nghiệp vụ liên quan đến các loại quyền sở hữu trí tuệ khác nhau…).
  • Nhiệm vụ nghiên cứu được xác định từ các nguồn: (i) Do Bộ Khoa học và Công nghệ giao trong kế hoạch nghiên cứu hàng năm dựa trên cơ sở đề xuất của Viện; (ii) Trên cơ sở hợp đồng nghiên cứu với các tổ chức, doanh nghiệp khác; (iii) Trên cơ sở liên kết, phối hợp với các tổ chức khác.
  • Sản phẩm nghiên cứu được coi là tài sản của Viện hoặc của chủ đầu tư nghiên cứu tuân theo các điều khoản về việc phân chia quyền sở hữu đối với sản phẩm đó trong hợp đồng nghiên cứu hoặc tuân theo pháp luật. Viện coi trọng việc đưa các sản phẩm nghiên cứu vào ứng dụng trong hoạt động chuyên môn tại Viện hoặc chuyển giao để ứng dụng trong thực tiễn ngoài Viện.

Các căn cứ pháp luật cho phép Viện Khoa học sở hữu trí tuệ tiến hành hoạt động giám định về sở hữu công nghiệp:

– Điều lệ tổ chức và hoạt động của Viện Khoa học sở hữu trí tuệ do Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành kèm theo Quyết định số 1660/QĐ-BKHCN ngày 13/8/2007.

– Luật Sở hữu trí tuệ 2005.

+ Điều 201 – Giám định về sở hữu trí tuệ.

– Nghị định số 105/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ.

+ Chương VI – Giám định sở hữu trí tuệ (các Điều từ 39 đến 53).

– Thông tư số 01/2008/TT-BKHCN ngày 25/2/2008 đã được sửa đổi theo Thông tư số 04/2009/TT-BKHCN ngày 27/3/2009 hướng dẫn việc cấp, thu hồi thẻ giám định viên sở hữu công nghiệp và giấy chứng nhận tổ chức đủ điều kiện hoạt động giám định sở hữu công nghiệp.

– Giấy chứng nhận Tổ chức đủ điều kiện hoạt động giám định sở hữu công nghiệp do Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ cấp ngày 27/6/2009 cho Viện Khoa học sở hữu trí tuệ.

TỜ KHAI YÊU CẦU GIÁM ĐỊNH SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP

Chú thích: (*) Đánh dấu X vào ô vuông nếu nội dung ghi sau đó là thích hợp.

(**) Nêu cụ thể hành vi được xếp vào dạng nào trong các dạng hành vi xâm phạm theo quy định tại Điều 124 Luật Sở hữu trí tuệ; trong trường hợp Người nộp đơn chỉ nêu chung chung là “sử dụng”, cơ quan giám định sẽ tiến hành giám định với tất cả các dạng hành vi xâm phạm có thể có và mỗi dạng hành vi được giám định nói trên sẽ được tính là 01 nội dung.

HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ GIÁM ĐỊNH SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – tự do – Hạnh phúc

HỢP ĐỒNG

dịch vụ giám định sở hữu công nghiệp

Số: ……………… / HĐGĐ

Căn cứ Khoản 3, Điều 201 của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và các Điều 40, 41, 43, 46, 51 và 53 của Nghị định 105/2006/NĐ-CP năm 2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ;

Căn cứ Mục 7 (Hợp đồng dịch vụ) của Bộ luật Dân sự năm 2005;

Căn cứ văn bản yêu cầu/trưng cầu giám định số ………. ngày ………. của ……………

Hôm nay, ngày …………………………………………………….

Chúng tôi, gồm:……………………………………………………

1. Bên yêu cầu cung cấp dịch vụ giám định (Bên A):

Họ và tên:………………………………………………………….

Địa chỉ:……………………………………………………………

Điện thoại:…………………….Fax:………………..E.mail:

Số tài khoản:…………………, tại Ngân hàng……………..

Người đại diện:…………………………………………………

Đại diện được ủy quyền:…………………………………….

(theo Giấy Ủy quyền số ……………… ngày …………….

do Ông/Bà …………………………….

chức vụ…………………………………..thay mặt Bên A ký)

2. Bên cung cấp dịch vụ (Bên B):

Viện Khoa học sở hữu trí tuệ thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ

Người đại diện:…………………………………………………

Chức vụ:…………………………………………………………

Địa chỉ: Số 21, Ngách 61/67, Đường Trần Duy Hưng, Cầu Giấy, Hà Nội

Điện thoại: 04. 3 5563450 Fax: 04. 3 5563407 E.mail: ipacademy@vipri.gov.vn

Số tài khoản: 0021001946594 tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam

Điều 1. Thoả thuận chung

Bên A yêu cầu, Bên B đồng ý thực hiện dịch vụ giám định về sở hữu công nghiệp với đối tượng, nội dung, phạm vi giám định và theo các thoả thuận nêu tại Hợp đồng này.

Điều 2. Đối tượng, nội dung, phạm vi giám định

1. Đối tượng, nội dung và phạm vi giám định được nêu (thể hiện) trong các tài liệu, mẫu vật mà Bên A nộp cho Bên B, đã được bên B tiếp nhận theo Biên nhận đơn giám định số ……………………ngày…………………….. và đã được Bên B thụ lý theo Thông báo kết quả thụ lý hồ sơ giám định số ………………………… ngày ………………… (Bản sao Biên nhận đơn giám định và Thông báo kết quả thụ lý hồ sơ giám định nói trên được đính kèm Hợp đồng này).

2. Trong quá trình giám định, nếu thấy cần thiết, Bên B có thể yêu cầu, Bên A có thể tự mình hoặc theo yêu cầu cầu Bên B bổ sung, sửa đổi tài liệu/mẫu vật nhằm làm rõ hơn đối tượng, nội dung, phạm vi giám định nhưng không được làm thay đổi bản chất đối tượng, nội dung giám định và không được mở rộng phạm vi giám định.

Trong trường hợp phải thay đổi bản chất đối tượng và nội dung giám định hoặc mở rộng phạm vi giám định, hai Bên sẽ thoả thuận để ký Hợp đồng dịch vụ giám định bổ sung hoặc Hợp đồng dịch vụ giám định khác.

3. Dịch vụ giám định chỉ được thực hiện phù hợp với đối tượng, nội dung và phạm vi nêu tại khoản 1 và 2 Điều này.

Điều 3. Sản phẩm giám định

1. Theo Hợp đồng này, “Sản phẩm giám định” dùng để chỉ các văn bản thể hiện kết quả giám định mà Bên B phải cung cấp (bàn giao) cho Bên A phù hợp với nội dung và phạm vi giám định.

2. Theo yêu cầu của Bên A, sản phẩm giám định gồm có:

(i) Bản kết luận giám định

(ii) Báo cáo tra cứu thông tin phục vụ việc giám định

(iii) Bảo sao các tài liệu tham khảo hữu ích nhất (do Bên B sưu tầm/mua được)

(iv) Bản dịch sang tiếng Việt của sản phẩm (iv)

(v) Sản phẩm khác, cụ thể là ….

Điều 4. Giá cả (phí giám định) và phương thức thanh toán

1. Theo Hợp đồng này, “Phí giám định” dùng để chỉ khoản tiền mà Bên A phải thanh toán cho Bên B nhằm bù đắp các chi phí và trả công thực hiện việc giám định, chưa bao gồm thuế VAT.

2. Mức phí giám định theo Hợp đồng này bao gồm hai phần:

(i) Phần xác định trước: là chi phí cho các công việc tối thiểu, có thể xác định được trước khi thực hiện việc giám định. Mức phí ứng với phần này là: ……………………………………….

(ii) Phần xác định sau: là chi phí cho các công việc khác, chỉ có thể xác định được sau khi việc giám định đã hoàn tất, theo Giấy báo thanh toán của bên B.

3. Phương thức thanh toán

a. Phí giám định có thể được thanh toán bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản.

b. Phần xác định trước của Phí giám định và thuế VAT tương ứng được Bên A thanh toán cho Bên B ngay khi Hợp đồng này được ký.

c. Phần còn lại (Phần xác định sau) và thuế VAT tương ứng được Bên A thanh toán cho Bên B khi Bên B bàn giao sản phẩm giám định, căn cứ vào Giấy báo thanh toán của Bên B.

Điều 5. Thời hạn thực hiện giám định

1. Thời hạn thực hiện giám định (là khoảng thời gian trong đó Bên B phải bàn giao cho Bên A sản phẩm giám định) theo Hợp đồng này là……………

2. Trong trường hợp xét thấy phải có thêm thời gian để khảo sát, tra cứu, phân tích, tham khảo ý kiến chuyên gia, Bên B có thể đề nghị Bên A gia hạn giám định. Nếu Bên A không đồng ý gia hạn, Hợp đồng này bị đình chỉ thực hiện.

Điều 6. Quyền và nghĩa vụ của Bên A

1. Bên A có các quyền sau đây:

(i) Các quyền quy định tại Khoản 1 Điều 41 Nghị định 105/2006/NĐ-CP

(ii) Bổ sung, sửa chữa tài liệu thuộc Đơn yêu cầu giám định phù hợp với quy định tại Khoản 2 Điều 2 Hợp đồng này.

2. Bên A có các nghĩa vụ sau đây:

(i) Các nghĩa vụ quy định tại Khoản 2 Điều 41 Nghị định 105/2006/NĐ-CP

(ii) Thanh toán phí giám định cho Bên B theo quy định tại Điều 4 Hợp đồng này.

(iii) Bảo đảm tính trung thực của các thông tin, tài liệu cung cấp cho bên B trong quá trình giám định; phải chịu trách nhiệm pháp lý về các thông tin, tài liệu không trung thực.

Điều 7. Quyền và nghĩa vụ của Bên B

1. Bên B có các quyền sau đây:

(i) Các quyền quy định tại các tiết a, b, c, d Khoản 4 Điều 44 Nghị định 105/2006/NĐ-CP;

(ii) Yêu cầu Bên A giải thích, làm rõ các vấn đề liên quan đến đối tượng và nội dung giám định.

2. Bên B có các nghĩa vụ sau đây:

(i) Các nghĩa vụ quy định tại các tiết đ, e, g và h Khoản 4 Điều 44 Nghị định 105/2006/NĐ-CP;

Bên B không có nghĩa vụ giải thích kết luận giám định cho người thứ ba;

(ii) Giữ bí mật các thông tin liên quan đến vụ việc giám định theo Hợp đồng này.

Điều 8. Giải quyết tranh chấp

Mọi tranh chấp liên quan đến việc thực hiện Hợp đồng này đều được giải quyết trước hết bằng việc thảo luận giữa hai Bên. Nếu hai Bên không thống nhất được cách giải quyết, tranh chấp sẽ được xử lý theo pháp luật dân sự.

Điều 9. Hiệu lực

Hợp đồng này bắt đầu có hiệu lực từ ngày ký.

Hợp đồng này được thanh lý khi Bên B trao sản phẩm cho Bên A và Bên A thanh toán hết phí giám định cho Bên B.

Hợp đồng này được làm thành 04 (bốn) bản: mỗi Bên giữ 02 (hai) bản có giá trị như nhau.

Bên A (………………. )

Bên B (Viện Khoa học sở hữu trí tuệ)

VIỆN TRƯỞNG

BIỂU GIÁ DỊCH VỤ GIÁM ĐỊNH SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP

BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

VIỆN KHOA HỌC SỞ HỮU TRÍ TUỆ

———-

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

———-

BIỂU GIÁ DỊCH VỤ GIÁM ĐỊNH SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP

Các căn cứ của việc ban hành Biểu giá

– Quyết định về việc thành lập Viện nghiên cứu và giám định sở hữu trí tuệ (Viện Khoa học sở hữu trí tuệ) số 846/QĐ-BKHCN ngày 24.5.2007;

– Điều lệ tổ chức và hoạt động của Viện Khoa học sở hữu trí tuệ (được ban hành theo Quyết định số 1660/QĐ-BKHCN ngày 13.8.2007 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ);

– Khoản 2 Điều 8 Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16.1.2002 về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu;

– Thông tư số 22/2009/TT-BTC ngày 4.2.2009 quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí, lệ phí sở hữu công nghiệp (viết tắt là TT 22/2009 – vận dụng làm căn cứ để tính giá dịch vụ giám định sở hữu công nghiệp);

– Thực tiễn chi phí nhân công, trang thiết bị, vật liệu, thông tin, năng lượng và trí tuệ để thực hiện các công việc giám định (ước lượng).

Biểu giá (Chưa bao gồm thuế VAT)

STT

Công việc/sản phẩm

Đơn vị công việc /sản phẩm

Đơn giá (x1000 đồng)

Chú thích

1

Nhận đơn, thụ lý Hồ sơ giám định (phí cơ bản)

Một (01) đơn yêu cầu/trưng cầu giám định

180

Vận dụng mục 1.1 (Phí nộp đơn), TT22/2009

2

Giám định pháp lý về SHCN

Vận dụng mục 6.6 (Phí giám định pháp lý về sở hữu công nghiệp),

TT 22/2009

2.1

Giám định sáng chế

Bản kết luận giám định không quá 03 trang ứng với 01 điểm yêu cầu bảo hộ độc lập x 01 nội dung giám định x 01 đối tượng giám định

420

Mỗi trang, từ trang thứ 04 của Bản kết luận giám định

110

Phần kết luận giám định tăng thêm ứng với 01 điểm yêu cầu bảo hộ phụ thuộc x 01 nội dung giám định x 01 đối tượng giám định

105

2.2

Giám định Kiểu dáng công nghiệp

Bản kết luận giám định không quá 03 trang ứng với 01 phương án của 01 sản phẩm x 01 nội dung giám định x 01 đối tượng giám định

300

Mỗi trang, từ trang thứ 04 của Bản kết luận giám định

95

2.3

Giám định Thiết kế bố trí

Bản kết luận giám định không quá 03 trang ứng với 01 Thiết kế bố trí được bảo hộ x 01 nội dung giám định x 01 đối tượng giám định

300

Mỗi trang, từ trang thứ 04 của Bản kết luận giám định

95

2.4

Giám định Nhãn hiệu

Bản kết luận giám định không quá 03 trang ứng với 01 nhóm sản phẩm được bảo hộ với số sản phẩm không quá 06 x 01 nội dung giám định x 01 đối tượng giám định

300

Mỗi trang, từ trang thứ 04 của Bản kết luận giám định

95

Mỗi sản phẩm, từ sản phẩm thứ 07 thuộc một nhóm

60

2.5

Giám định Tên thương mại

Bản kết luận giám định không quá 03 trang ứng với 01 tên thương mại được bảo hộ x 01 nội dung giám định x 01 đối tượng giám định

300

Mỗi trang, từ trang thứ 04 của Bản kết luận giám định

95

2.6

Giám định Chỉ dẫn địa lý

Bản kết luận giám định không quá 03 trang ứng với 01 chỉ dẫn địa lý được bảo hộ x 01 nội dung giám định x 01 đối tượng giám định

420

Mỗi trang, từ trang thứ 04 của Bản kết luận giám định

110

2.7

Giám định nhanh (thời hạn giám định rút ngắn – theo yêu cầu – so với thời hạn giám định trung bình)

Thời gian giám định thực (theo yêu cầu của người nộp đơn)

Mức phí

tăng thêm

Thời hạn giám định trung bình theo tiêu chuẩn (ứng với mức phí ghi trong Biểu giá) là 02 tháng đối với sáng chế và 01 tháng đối với các đối tượng khác

Thời gian giám định thực: được tính từ ngày làm việc tiếp theo ngày ghi trên Dấu nhận đơn giám định đến ngày ký Bản kết luận giám định

Sáng chế, Giải pháp hữu ích

Các đối tượng khác

02 tháng

01 tháng

0%

42 ngày – 50 ngày

21 ngày – 24 ngày

25%

36 ngày – 41 ngày

18 ngày – 20 ngày

35%

30 ngày – 35 ngày

15 ngày – 17 ngày

45%

24 ngày – 29 ngày

12 ngày – 14 ngày

55%

18 ngày – 23 ngày

9 ngày – 11 ngày

65%

12 ngày – 17 ngày

6 ngày – 8 ngày

75%

Dưới 12 ngày

Dưới 6 ngày

85%

3

Tra cứu, cung cấp thông tin

Vận dụng mục 8.1, 8.3 (phí tra cứu, cung cấp thông tin sở hữu công nghiệp) TT22/2009

3.1

Báo cáo tra cứu thông tin

01 Báo cáo

120

3.2

Thông tin tóm tắt sáng chế

01 Bản tóm tắt

50

3.3

Thông tin đầy đủ (Bản mô tả) về sáng chế

01 Bản mô tả dưới 06 trang

100

Từ trang thứ 6

15

3.4

Thông tin về đăng ký Nhãn hiệu

01 đăng ký x 01 nhóm sản phẩm

50

Từ nhóm thứ hai

15

3.5

Tài liệu tham khảo về lý thuyết/học thuyết được sử dụng phục vụ giám định

Theo giá mua tài liệu tương ứng

3.6

Thông tin về vụ việc (case) tương tự

Theo giá mua thông tin tương ứng

3.7

Thông tin điều tra thị trường

Theo chi phí thực để tiến hành cuộc điều tra

3.8

Dịch thông tin, tài liệu từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt

01 trang tiếng nước ngoài (350 từ)

100

4

Dịch vụ kỹ thuật (đo đạc, kiểm nghiệm…)

Theo hợp đồng thuê khoán đo đạc/kiểm nghiệm

5

Tư vấn về các vấn đề liên quan tới giám định

01 giờ tư vấn

75

6

Đi lại, lưu trú tại hiện trường để tiến hành giám định

Theo thực chi

HƯỚNG DẪN NỘP ĐƠN GIÁM ĐỊNH

1. Người có quyền nộp đơn giám định

– Viện Khoa học sở hữu trí tuệ chỉ thực hiện việc giám định với những đơn giám định của người có quyền yêu cầu / trưng cầu giám định (quyền nộp đơn giám định) theo các Khoản 2, 3 Điều 201 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 và Điều 40 Nghị định 105/2006/NĐ-CP, cụ thể là:

(i) Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (quy định tại Điều 200 Luật Sở hữu trí tuệ 2005) có quyền trưng cầu giám định khi giải quyết vụ việc mà mình đang thụ lý

(ii) Tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu giám định:

  • Chủ thể quyền sở hữu công nghiệp;
  • Tổ chức, cá nhân bị yêu cầu xử lý về hành vi xâm phạm hoặc bị khiếu nại, tố cáo về sở hữu công nghiệp;
  • Tổ chức, cá nhân có quyền, lợi ích liên quan đến vụ tranh chấp, xâm phạm, khiếu nại, tố cáo về sở hữu công nghiệp.

– Trong đơn giám định phải chỉ rõ việc người đứng đơn có quyền nộp đơn giám định. Nếu không chỉ rõ điều đó, người nộp đơn sẽ được Viện Khoa học sở hữu trí tuệ yêu cầu chứng minh rằng mình có quyền yêu cầu / trưng cầu giám định.

– Quyền nộp đơn giám định có thể được thực hiện một cách trực tiếp hoặc qua đại diện (theo pháp luật hoặc theo ủy quyền bằng văn bản).

2. Đơn giám định

– “Đơn giám định” là tập hợp các tài liệu, chứng cứ, mẫu vật… thể hiện yêu cầu, mục đích, đối tượng, nội dung giám định.

Các tài liệu bắt buộc phải có trong Đơn giám định:

(i) Văn bản thể hiện yêu cầu giám định, bao gồm các thông tin về người yêu cầu / trưng cầu; đối tượng cần giám định; mục đích, nội dung và các yêu cầu cụ thể khác về việc giám định;

Văn bản thể hiện yêu cầu giám định có thể là:

  • Quyết định trưng cầu giám định của cơ quan có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm hoặc có thẩm quyền xử lý tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về sở hữu công nghiệp (làm theo mẫu do pháp luật quy định hoặc do cơ quan đó ban hành);
  • Công văn / giấy tờ thể hiện yêu cầu / nguyện vọng được thực hiện giám định, với các thông tin cụ thể như trên;
  • Tờ khai yêu cầu giám định, theo mẫu của Viện Khoa học sở hữu trí tuệ;

{Viện Khoa học sở hữu trí tuệ khuyến cáo: Nên sử dụng Mẫu Tờ khai nói trên để tránh phải làm đi làm lại, bổ sung, sửa chữa văn bản thể hiện yêu cầu giám định!}

(ii) Tài liệu thể hiện căn cứ xác lập quyền sở hữu công nghiệp (Văn bằng bảo hộ – Bản gốc hoặc bản sao / Bản sao đăng ký quốc tế nhãn hiệu / Quyết định công nhận nhãn hiệu nổi tiếng / Giấy chứng nhận đăng ký hợp đồng chuyển nhượng hoặc chuyển giao quyền và các tài liệu tương đương);

(iii) Tài liệu thể hiện đối tượng cần giám định (tài liệu mô tả, ảnh chụp, bản vẽ, hợp đồng giao dịch, tài liệu quảng cáo…);

(iv) Chứng từ nộp phí cơ bản (phí nộp đơn);

(v) Giấy ủy quyền (nếu Đơn giám định được nộp thông qua đại diện).

Ngoài ra, Đơn có thể có các tài liệu khác nếu cần thiết cho việc giám định (tài liệu diễn giải lập luận của các bên liên quan; quyết định giải quyết vụ việc tương tự của các cơ quan có thẩm quyền; các thông tin hữu ích cho việc xem xét, đánh giá khi giám định; các kết quả kiểm nghiệm, đo lường…).

Đối tượng giám định có thể là mẫu vật được kèm theo Đơn. Mẫu vật kèm theo đơn để giám định không được chứa nguy cơ (dễ cháy, nổ, độc hại…) hoặc đòi hỏi điều kiện bảo quản đặc biệt (vật thể sống, chất cần bảo quản ở nhiệt độ cao hoặc thấp, mẫu vật quá lớn, mẫu vật cần dụng cụ chứa riêng…).

– Nộp Đơn giám định:

Đơn giám định có thể nộp trực tiếp hoặc nộp qua bưu điện theo địa chỉ: Viện Khoa học sở hữu trí tuệ – Địa chỉ: Số 21, ngách 61/67 đường Trần Duy Hưng, quận Cầu Giấy, Hà Nội.

3. Hợp đồng giám định

– Việc giám định theo yêu cầu của Viện Khoa học sở hữu trí tuệ được coi là một loại dịch vụ được thực hiện trên cơ sở hợp đồng (theo Điều 46 Nghị định 105/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006).

Việc giám định theo Quyết định trưng cầu của cơ quan có thẩm quyền (theo Điều 45 Nghị định nói trên) không bắt buộc nhưng có thể thực hiện trên cơ sở hợp đồng.

– Đơn (yêu cầu) giám định sau khi được tiếp nhận sẽ được Viện Khoa học sở hữu trí tuệ xem xét về mặt hình thức (xem thêm Trình tự thực hiện giám định). Nếu Đơn giám định đủ các điều kiện cần thiết (Đơn hợp lệ), Viện Khoa học sở hữu trí tuệ sẽ thông báo cho người nộp đơn để hai Bên giao kết hợp đồng giám định.

– Hợp đồng giám định được làm theo mẫu, có thể có các điều chỉnh phù hợp với từng đối tượng cụ thể và theo thỏa thuận khác giữa hai Bên.

4. Sản phẩm giám định

– Kết quả giám định được thể hiện dưới các dạng sản phẩm sau đây

(i) Bản kết luận giám định: là văn bản đưa ra các câu trả lời tương ứng với các câu hỏi thuộc nội dung giám định, được lập phù hợp với quy định tại Điều 51 Nghị định 105/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006;

(ii) Báo cáo tra cứu thông tin phục vụ việc giám định: là văn bản thuyết minh về mục đích tra cứu thông tin; chỉ dẫn về các nguồn tin đã được sử dụng và kết quả dưới dạng danh mục các tài liệu / dữ liệu đã tra cứu được coi là hữu ích cho việc đưa ra kết luận giám định;

(iii) Bản sao các tài liệu tham khảo có ích nhất đã được sử dụng (phù hợp với Bản thuyết minh về phương pháp giám định – tài liệu (ii)) và tài liệu / dữ liệu đã tra cứu được (phù hợp với tài liệu (iii));

(iv) Bản dịch các tài liệu (iv);

(v) Sản phẩm khác.

– Sản phẩm (i) – Bản kết luận giám định – là sản phẩm tối thiểu của bất kỳ một vụ giám định nào; ứng với mức phí (giá dịch vụ) giám định tối thiểu;

– Các sản phẩm từ (ii) đến (vi) chỉ được phát hành cho Người nộp đơn khi có thỏa thuận rằng Người yêu cầu giám định muốn có các sản phẩm đó (ngoài Bản kết luận giám định) và thanh toán các khoản phí tương ứng để có chúng.

5. Thời hạn giám định

– Thời hạn giám định phụ thuộc vào các yếu tố sau đây:

(i) Mức độ phức tạp của vụ việc giám định;

(ii) Khối lượng các công việc cần tiến hành khi giám định;

(iii) Mức độ hoàn hiện của Đơn giám định;

(iv) Khả năng đáp ứng của Viện Khoa học sở hữu trí tuệ.

– Thời hạn giám định trung bình (tương ứng với mức phí ghi trong Biểu giá dịch vụ giám định): 02 tháng đối với giám định sáng chế; 01 tháng đối với giám định thiết kế bố trí, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý.

– Để rút ngắn thời hạn giám định, Đơn giám định cần được làm với chất lượng tốt để không phải sửa chữa, bổ sung…, cụ thể là:

(i) Đơn phải có đủ các tài liệu, thông tin cần thiết và phải bảo đảm sự trung thực của các thông tin nêu trong Đơn;

(ii) Đối tượng giám định phải rõ ràng, cụ thể; trong trường hợp đối tượng giám định được mô tả hoặc thể hiện bằng lời thì bản mô tả, thể hiện đối tượng cần được làm một cách đầy đủ, phù hợp và thuận lợi cho việc giám định;

(iii) Trong Đơn nên nói rõ quan điểm, lập luận của Người nộp đơn và/hoặc của những người liên quan đến vụ việc cần giám định;

(iv) Trong Đơn nên có các thông tin, tài liệu hỗ trợ, bổ trợ cho các quan điểm, lập luận của Người nộp đơn và/hoặc người liên quan – nhất là thông tin về vụ việc tương tự / cùng loại đã được giải quyết trước đó tại Việt Nam và/hoặc nước ngoài.

– Thời hạn giám định do Người nộp đơn đề xuất để Viện Khoa học sở hữu trí tuệ cân nhắc chấp thuận hoặc đề nghị thay đổi. Thời hạn đã được hai Bên thống nhất được ghi vào Hợp đồng giám định.

6. Phí (giá) dịch vụ giám định

– Người nộp đơn giám định (bao gồm cả cơ quan có thẩm quyền quyết định trưng cầu giám định) phải thanh toán phí giám định theo Biểu giá dịch vụ giám định sở hữu công nghiệp trên nguyên tắc cần thực hiện công việc gì thì trả phí cho công việc đó.

– Biểu giá dịch vụ giám định được xây dựng trên cơ sở THAM KHẢO VẬN DỤNG các mức phí tương ứng được quy định trong Thông tư số 22/2009/TT-BTC ngày 4/2/2009 quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí, lệ phí sở hữu công nghiệp (áp dụng cho cơ quan quản lý nhà nước có thu phí, lệ phí sở hữu công nghiệp) và trên cơ sở thực tiễn chi phí nhân công, trang thiết bị, vật liệu, thông tin, năng lượng và trí tuệ để thực hiện công việc giám định.

– Mọi Đơn giám định được Viện Khoa học sở hữu trí tuệ tiếp nhận để giám định đều phải nộp phí nhận đơn và thụ lý hồ sơ giám định (còn được gọi là “phí cơ bản”) bất kể sau đó việc giám định có được thực hiện hay không.

– Các khoản phí liên quan đến việc giám định được xác định tùy theo nội dung, khối lượng công việc và sản phẩm giám định.

– Mức phí trong Biểu giá dịch vụ giám định được ấn định cho trường hợp giám định trong thời hạn thông thường (02 tháng đối với giám định sáng chế, 01 tháng đối với giám định thiết kế bố trí, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý) – gọi là “phí giám định thường”. Trong trường hợp Người nộp đơn giám định yêu cầu kết thúc sớm quá trình giám định (giám định nhanh), Người đó phải nộp phí bổ sung (phí giám định nhanh). Mức phí bổ sung (phí giám định nhanh) được xác định theo mức rút ngắn thời hạn giám định.

(MINH KHUE LAW FIRM: tổng hợp)

3. Xác định hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp

Nhằm bù đắp cho những nỗ lực sáng tạo của chủ thể đã tạo ra đối tượng sở hữu công nghiệp, chủ thể sáng tạo được trao những độc quyền trong một thời hạn nhất định. Việc thực hiện những độc quyền này, tuy nhiên, có thể gây ra những tác động tiêu cực cho khả năng tiếp cận hàng hoá của người tiêu dùng, cho sự lưu chuyển bình thường của hàng hoá, dịch vụ trên thị trường và cho cạnh tranh lành mạnh.

1. Quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp theo quy định của pháp luật Việt Nam[1]

Chủ thể nắm giữ quyền sở hữu công nghiệp được trao độc quyền, bởi vậy, họ dễ dàng lạm dụng quyền để cản trở hoạt động thương mại, gây tổn hại cho người tiêu dùng.[2] Hơn nữa, xuất phát từ giá trị thương mại của đối tượng sở hữu công nghiệp, chủ thể kinh doanh thường nghĩ đến việc sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp của đối thủ cạnh tranh (đây được coi như một trong những thành quả đầu tư của đối thủ cạnh tranh) để kiếm lời và gây thiệt hại cho đối thủ cạnh tranh. Bởi vậy, việc xuất hiện các hành vi cạnh tranh liên quan đến sở hữu công nghiệp là tất yếu. Những hành vi này vừa vi phạm pháp luật cạnh tranh vừa vi phạm pháp luật sở hữu trí tuệ và được chia thành hai loại: hành vi hạn chế cạnh tranh và hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp. Khi nền kinh tế càng phát triển thì loại việc này càng nhiều. Thực tế này đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa pháp luật cạnh tranh và pháp luật sở hữu trí tuệ, sự cân bằng giữa bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và chính sách đảm bảo cạnh tranh lành mạnh.[3]

Cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp trước hết là việc cạnh tranh, bên cạnh đó còn có đặc điểm riêng biệt gắn liền với quyền sở hữu công nghiệp. Đó là, đối với cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp, việc cạnh tranh liên quan đến sử dụng và chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp. Hành vi cạnh tranh bất hợp pháp liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp vi phạm cả pháp luật cạnh tranh và pháp luật sở hữu trí tuệ.

>>

Các quốc gia trên thế giới nhìn nhận được mối quan hệ giữa pháp luật cạnh tranh và pháp luật sở hữu trí tuệ, cho nên, đã có chính sách cũng như pháp luật giải quyết các vụ việc cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ. Vấn đề cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ được quy định trong Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp năm 1883 (khoản 2, khoản 3 Điều 10bis) và Hiệp định về các khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí tuệ-TRIPS năm 1994 (Điều 8.2 và Điều 40).

Ở Việt Nam, cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp lần đầu tiên được quy định tại Nghị định 54/2000/NĐ-CP về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại và bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới sở hữu công nghiệp. Hiện nay, vấn đề này được điều chỉnh bởi nhiều văn bản khác nhau như: Luật cạnh tranh năm 2004 (sau đây viết tắt là LCT); Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 (sau đây viết tắt là LSHTT); Luật chuyển giao công nghệ năm 2007; Nghị định 116/2005/NĐ-CP ngày 15/9/2005 của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của LCT; Nghị định 106/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 quy định về xử phạt vi phạm hành chính về sở hữu công nghiệp. Ở nước ta, mặc dù loại việc này đã xuất hiện và được các cơ quan có thẩm quyền giải quyết, tuy nhiên đây vẫn là vấn đề mới, quy định pháp luật chưa rõ ràng và kinh nghiệm của các cơ quan có thẩm quyền giải quyết loại việc này còn thiếu.

1.1. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp[4]

Hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp là hành vi có những đặc điểm sau đây: do doanh nghiệp tiến hành trong quá trình kinh doanh; trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh; liên quan đến sử dụng hoặc chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp; gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng.

Theo quy định của LCT năm 2004 và LSHTT năm 2005, hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp bao gồm: (i) hành vi chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn; (ii) hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh; (iii) hành vi sử dụng nhãn hiệu được bảo hộ tại một nước là thành viên của điều ước quốc tế có quy định cấm người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu sử dụng nhãn hiệu đó; (iv) hành vi đăng ký, chiếm giữ, sử dụng tên miền bất hợp pháp. Trong đó, LCT quy định hành vi (i) và (ii) là những hành vi cạnh tranh không lành mạnh; LSHTT quy định hành vi (i), (iii), (iv) là những hành vi cạnh tranh không lành mạnh, còn hành vi (ii) quy định trong LSHTT là hành vi xâm phạm quyền đối với bí mật kinh doanh.

1.1.1. Hành vi chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn

LCT quy định về hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn tại Điều 39 và Điều 40 và LSHTT quy định về hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn tại Điều 130.

Theo quy định của LCT và LSHTT, chỉ dẫn gây nhầm lẫn bị coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh khi: (a) sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, hoạt động kinh doanh, nguồn gốc thương mại của hàng hoá, dịch vụ ((Khoản 1 Điều 40 LCT và Điểm a Khoản 1 Điều 130 LSHTT); (b) sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về xuất xứ, cách sản xuất, tính năng, chất lượng, số lượng hoặc đặc điểm khác của hàng hoá, dịch vụ; về điều kiện cung cấp hàng hoá, dịch vụ (Điểm b, Khoản 1 Điều 130 LCT); (c) kinh doanh hàng hoá, dịch vụ có sử dụng chỉ dẫn địa lý gây nhầm lẫn (Khoản 2 Điều 40 LCT).

Chỉ dẫn thương mại là: Các dấu hiệu, thông tin nhằm hướng dẫn thương mại hàng hoá, dịch vụ, bao gồm nhãn hiệu, tên thương mại, biểu tượng kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng bao bì của hàng hoá, nhãn hàng hoá (Khoản 2 Điều 130 LSHTT). Hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại bao gồm (Khoản 3 Điều 130 LSHTT): Gắn chỉ dẫn thương mại lên hàng hoá, bao bì hàng hoá, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch kinh doanh, phương tiện quảng cáo; Bán, quảng cáo để bán, tàng trữ để bán, nhập khẩu hàng hoá có gắn chỉ dẫn thương mại.

Ví dụ: Cơ sở cà phê Mê Hy Cô sử dụng biển hiệu gây nhầm lẫn với biển hiệu của Xí nghiệp Trung Nguyên[5]. Cụ thể, Xí nghiệp Trung Nguyên hoạt động kinh doanh với ngành nghề chế biến cà phê bột (đăng ký kinh doanh năm 1996). Xí nghiệp này sử dụng rộng rãi biển hiệu: ”Trung Nguyên – cho bạn nguồn cảm hứng sáng tạo mới” trong hoạt động kinh doanh. Biển hiệu này được sử dụng tại các quán cà phê ở những địa điểm cung ứng cà phê của Trung Nguyên. Biển hiệu của Xí nghiệp Trung Nguyên có những đặc điểm chính như sau (theo bố cục của biển hiệu từ trên xuống): dòng chữ ”cà phê hàng đầu Buôn Mê Thuột” màu vàng; dòng chữ ”Trung Nguyên” ở giữa màu trắng; dòng chữ ”mang lại nguồn cảm hứng sáng tạo mới” được thể hiện theo đường uốn khúc (chữ đỏ trên nền vàng); góc bên phải có hình mũi tên viền trắng hướng lên trên; góc bên trái là hình tách cà phê trên nền các hạt cà phê. Cơ sở cà phê Mê Hy Cô hoạt động kinh doanh từ năm 1999 có cùng ngành nghề chế biến cà phê với xí nghiệp Trung Nguyên và hoạt động tại địa bàn tỉnh Đắc Lắc. Cơ sở Mê Hy Cô sử dụng biển hiệu ”Mê Hy Cô – Cho bạn cảm giác sáng tạo mới” tại một số địa điểm kinh doanh của cơ sở và tại những địa điểm đã đặt biển hiệu của xí nghiệp Trung Nguyên. Biển hiệu của cơ sở Mê Hy Cô có những đặc điểm chính sau đây: dòng chữ ”hãng cà phê hàng đầu Buôn Mê Thuột” màu vàng ở phía trên; dòng chữ ”Mê Hy Cô” ở giữa màu trắng; dòng chữ ”hương vị cho bạn cảm giác sảng khoái mới” được thể hiện theo đường uốn khúc (chữ đỏ trên nền vàng); góc bên phải có hình mũi tên viền trắng hướng lên trên; góc bên trái là hình tách cà phê trên nền các hạt cà phê.

Theo quy định của LCT và LSHTT, sử dụng nhãn hiệu hoặc/và tên thương mại gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, hoạt động kinh doanh, nguồn gốc thương mại của hàng hoá, dịch vụ bị coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Trong khi đó, hành vi sử dụng dấu hiệu trùng với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hoá, dịch vụ tương tự hoặc liên quan tới hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó và hành vi sử dụng dấu hiệu tương tự với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hoá, dịch vụ trùng, tương tự hoặc liên quan tới hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hoá, dịch vụ bị coi là hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu (điểm b, điểm c Khoản 1 Điều 129 LSHTT). Cũng theo quy định của LSHTT, mọi hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại trùng hoặc tương tự với tên thương mại của người khác đã được sử dụng trước cho cùng loại sản phẩm, dịch vụ hoặc cho sản phẩm, dịch vụ tương tự, gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, cơ sở kinh doanh, hoạt động kinh doanh dưới tên thương mại đó đều bị coi là hành vi xâm phạm quyền đối với tên thương mại (Khoản 2 Điều 129). Cho nên, nếu chỉ dựa vào những quy định này của pháp luật, rất khó xác định khi nào hành vi sử dụng nhãn hiệu hoặc sử dụng tên thương mại gây nhầm lẫn là hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ và khi nào là hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

1.1.2. Hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh

Hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh được quy định tại Điều 39 và Điều 41 LCT. Theo đó, doanh nghiệp bị cấm thực hiện các hành vi sau đây: (a) Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của người sở hữu hợp pháp bí mật kinh doanh đó; (b) Tiết lộ, sử dụng thông tin thuộc bí mật kinh doanh mà không được phép của chủ sở hữu bí mật kinh doanh; (c) Vi phạm hợp đồng bảo mật hoặc lừa gạt, lợi dụng lòng tin của người có nghĩa vụ bảo mật nhằm tiếp cận, thu thập và làm lộ thông tin thuộc bí mật kinh doanh của chủ sở hữu bí mật kinh doanh đó; (d) Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh của người khác khi người này làm thủ tục theo quy định của pháp luật liên quan đến kinh doanh, làm thủ tục lưu hành sản phẩm hoặc bằng chống lại các biện pháp bảo mật của cơ quan nhà nước hoặc sử dụng những thông tin đó nhằm mục đích kinh doanh, xin cấp giấy phép liên quan đến kinh doanh hoặc lưu hành sản phẩm.

Hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh không được liệt kê trong các hành vi cạnh tranh không lành mạnh quy định tại Điều 130 LSHTT. Tuy nhiên, quy định tại Điều 41 về các hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh trong LCT lại tương tự với quy định về hành vi xâm phạm quyền đối với bí mật kinh doanh tại Điều 127 LSHTT. Bên cạnh bốn hành vi được quy định trong LCT, LSHTT quy định thêm hai hành vi tại điểm đ, e khoản 1 Điều 127. Điều 16 Nghị định 106/2006/NĐ-CP tách hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh ra khỏi hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Hơn nữa, khoản 2 Điều 5 LSHTT lại quy định rằng: “Trong trường hợp có sự khác nhau giữa quy định về sở hữu trí tuệ của Luật này với quy định của luật khác thì áp dụng quy định của Luật này”. Vậy xâm phạm bí mật kinh doanh có thể là hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ hay không?

1.1.3. Hành vi sử dụng nhãn hiệu được bảo hộ tại một nước thành viên là thành viên của điều ước quốc tế có quy định cấm người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu sử dụng nhãn hiệu đó

Theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 130 LSHTT, hành vi sử dụng nhãn hiệu được bảo hộ tại một nước thành viên là thành viên của điều ước quốc tế có quy định cấm người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu sử dụng nhãn hiệu đó bị coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh khi thoả mãn đầy đủ các điều kiện sau đây: Nhãn hiệu được sử dụng được bảo hộ theo điều ước quốc tế mà Việt Nam cũng là thành viên; Điều ước quốc tế có quy định cấm người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu sử dụng nhãn hiệu; Người sử dụng nhãn hiệu là người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu; Việc sử dụng không được sự đồng ý của chủ sở hữu nhãn hiệu và không có lý do chính đáng.

1.1.4. Hành vi đăng ký, chiếm giữ, sử dụng tên miền bất hợp pháp

Tên miền không phải là một đối tượng sở hữu trí tuệ theo quy định của pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, thực tế cho thấy rất nhiều doanh nghiệp đăng ký, sử dụng tên miền trùng với tên thương mại, nhãn hiệu được bảo hộ mà họ là chủ sở hữu, hoặc trùng với chỉ dẫn địa lý mà họ có quyền sử dụng hợp pháp.

Theo quy định tại điểm d, khoản 1 Điều 130 LSHTT, hành vi ” ăn cắp” tên miền bị coi là một trong những hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Cụ thể, đó là hành vi đăng ký, chiếm giữ quyền sử dụng hoặc sử dụng tên miền trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu, tên thương mại được bảo hộ của người khác hoặc chỉ dẫn địa lý của mình không có quyền sử dụng nhằm mục đích chiếm giữ tên miền, lợi dụng hoặc làm thiệt hại đến uy tín, danh tiếng của nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý tương ứng.

Vậy trường hợp một cá nhân lợi dụng danh tiếng của một nhãn hiệu (của người khác) đã được bảo hộ, sử dụng tên miền trùng với nhãn hiệu này để truyền tải các thông tin cá nhân chứ không nhằm mục đích kinh doanh có được coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh không? Nếu chỉ dựa vào quy định của Điều 130 LSHTT, câu trả lời là có thể. Tuy nhiên, nếu xem xét chủ thể thực hiện hành vi và mục đích của chủ thể khi thực hiện hành vi này, chúng ta không thể cho đây là hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Bởi vì: chủ thể tiến hành hành vi không phải là một chủ thể kinh doanh và chủ thể thực hiện hành vi không nhằm mục đích cản trở cạnh tranh lành mạnh, không nhằm mục đích gây thiệt hại cho chủ sở hữu nhãn hiệu hay người tiêu dùng sản phẩm gắn nhãn hiệu.

1.2. Hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp[6]

Hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp là hành vi có những đặc điểm sau đây: do doanh nghiệp tiến hành; làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường; liên quan đến sử dụng hoặc chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp;[7] thể hiện ở ba dạng: thoả thuận hạn chế cạnh tranh; lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền; và tập trung kinh tế.

Nếu như LSHTT có quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp tại Điều 130 thì Lut này lại không có quy định cụ thể nào về hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp. Về nguyên tắc, những thoả thuận hạn chế cạnh tranh quy định tại Điều 8, Điều 9 LCT, những hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền quy định từ Điều 11 đến Điều 14 LCT, những hành vi tập trung kinh tế quy đinh từ Điều 16 đến Điều 19 LCT mà liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp đều có thể bị coi là hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp.

Theo quy định của pháp luật cạnh tranh và pháp luật sở hữu trí tuệ, những hành vi sau đây bị coi là hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ: (a) Thoả thuận hạn chế phát triển kĩ thuật, công nghệ khi các bên tham gia thoả thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên (khoản 4 Điều 8, khoản 2 Điều 9 LCT); (b) Doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường thực hiện hành vi cản trở sự phát triển kĩ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho khách hàng (khoản 3 Điều 13 LCT). Theo Nghị định số 116/2005/NĐ-CP ngày 15/9/2005 của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của LCT, các hành vi nêu trên được giải thích là việc mua sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp để tiêu huỷ hoặc không sử dụng (khoản 1 Điều 17 và điểm a khoản 3 Điều 28); (c) Ghi nhận những điều khoản hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 144 LSHTT, hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp không được có các điều khoản hạn chế bất hợp lí quyền của bên được chuyển quyền, đặc biệt là các điều khoản không xuất phát từ quyền của bên chuyển quyền, bao gồm: (i) Cấm bên được chuyển quyền cải tiến đối tượng sở hữu công nghiệp, trừ nhãn hiệu; buộc bên được chuyển quyền phải chuyển giao miễn phí cho bên chuyển quyền các cải tiến đối tượng sở hữu công nghiệp do bên được chuyển quyền tạo ra hoặc quyền đăng ký sở hữu công nghiệp, quyền sở hữu công nghiệp đối với các cải tiến đó; (ii) Trực tiếp hoặc gián tiếp hạn chế bên được chuyển quyền xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ được sản xuất hoặc cung cấp theo hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp sang các vùng lãnh thổ không phải là nơi mà bên chuyển quyền nắm giữ quyền sở hữu công nghiệp tương ứng hoặc có độc quyền nhập khẩu hàng hoá đó; (iii) Buộc bên được chuyển quyền phải mua toàn bộ hoặc một tỷ lệ nhất định các nguyên liệu, linh kiện hoặc thiết bị của bên chuyển quyền hoặc của người thứ ba do bên chuyển quyền chỉ định mà không nhằm mục đích bảo đảm chất lượng hàng hóa, dịch vụ do bên được chuyển quyền sản xuất hoặc cung cấp. Bên cạnh đó, Điều 20 (khoản 2, điểm e) Luật chuyển giao công nghệ cũng quy định rõ: Bên giao công nghệ ”không được thoả thuận về điều khoản hạn chế cạnh tranh bị cấm theo quy định của LCT”.

2. Một số lưu ý khi xác định hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp

Vụ việc cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp là loại việc phức tạp vì có sự gắn kết giữa hai lĩnh vực cạnh tranh và sở hữu trí tuệ, là sự giao thoa giữa pháp luật cạnh tranh và pháp luật sở hữu trí tuệ. Vấn đề cốt lõi trong giải quyết loại việc này là phân biệt rõ hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp và hành vi cạnh tranh bất hợp pháp liên quan đến quyền sở hữu sở hữu công nghiệp. Thực tế, hai loại hành vi này dễ gây nhần lẫn và khó phân biệt. Để xác định chính xác hành vi, trước tiên, cần xem xét chính sách cạnh tranh, chính sách bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của nhà nước và áp dụng hài hoà pháp luật cạnh tranh và pháp luật sở hữu trí tuệ, đồng thời xem xét kỹ lưỡng các trường hợp miễn trừ.[8] Về nguyên tắc, bất kỳ hành vi sử dụng quyền sở hữu công nghiệp hoặc sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp nào dẫn đến chia cắt thị trường, duy trì mức giá giả tạo, hoặc bắt buộc những điều kiện mang tính chất phân biệt, không công bằng đối với đối tác kinh doanh khác đều có thể bị coi là hành vi cạnh tranh bất hợp pháp liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ.[9] Tuy nhiên, một hành vi chỉ có thể bị coi là xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp hoặc cạnh tranh bất hợp pháp (có thể là hành vi cạnh tranh không lành mạnh hoặc hành vi hạn chế cạnh tranh). Cho nên, không thể áp dụng cả hai loại chế tài (chế tài theo pháp luật sở hữu trí tuệ và theo pháp luật cạnh tranh) cho một hành vi liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp hoặc đối tượng sở hữu công nghiệp và cản trở hoặc hạn chế cạnh tranh. Bên cạnh đó, để giải quyết đúng vụ việc cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp, cần lưu ý những vấn đề sau:

Thứ nhất, nắm rõ những đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp và hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp (xem phần viết trên).

Thứ hai, hành vi xâm phạm quyền đối với đối tượng sở hữu công nghiệp đã được cấp văn bằng bảo hộ: coi là hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp.

Thứ ba, hành vi xâm phạm quyền đối với những đối tượng sở hữu công nghiệp trong quá trình thực hiện thủ tục đăng ký bảo hộ (chưa được cấp Văn bằng bảo hộ) hoặc chưa tiến hành đăng ký bảo hộ: coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh hoặc hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp.

Thứ tư, trường hợp hai sản phẩm mang hai nhãn hiệu không gây nhầm lẫn nhưng sự trình bày tổng thể trên sản phẩm/bao bì sản phẩm lại gây nhầm lẫn: coi là hành vi cạnh tranh bất hợp pháp liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp. Ví dụ: nhãn hiệu “GASTROPULGITE” được bảo hộ tại Việt Nam (đăng ký quốc tế số 314437 của Công ty SCRAS). Công ty cổ phần dược phẩm Hà Tây bán thuốc điều trị các bệnh về rối loạn tiêu hoá mang nhãn hiệu “GASTRODIC”. Chỉ riêng nhãn hiệu GASTRODIC mà Công ty cổ phần dược phẩm Hà Tây sử dụng không gây nhầm lẫn với nhãn hiệu GASTROPULGITE, tuy nhiên, chữ viết, màu sắc, sự phối hợp của các yếu tố này và sự trình bày hộp của sản phẩm GASTRODIC gây nhầm lẫn với sản phẩm GASTROPULGITE của SCRAS. Vì vậy, Công ty cổ phần dược phẩm Hà Tây bị coi đã thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp.

Xác định một hành vi là xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp hay cạnh tranh không lành mạnh hoặc hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp có ý nghĩa quan trọng. Bởi vì: biện pháp xử lý hai loại hành vi này khác nhau dẫn đến hệ quả pháp lý đối với các chủ thể liên quan cũng khác nhau. Chẳng hạn, mức phạt tiền trong xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh từ năm triệu đến hai mươi triệu đồng (Điều 30 Nghị định 120/2005/NĐ-CP); trong khi đó, mức phạt tiền đối với hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ tối thiểu bằng giá trị hàng hoá vi phạm đã phát hiện được và tối đa bằng năm lần giá trị hàng hoá vi phạm (khoản 4 Điều 214 LSHTT). Khi ban hành văn bản pháp luật, mối quan hệ giữa pháp luật cạnh tranh và pháp luật sở hữu trí tuệ đối với quy định về cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ chưa được giải quyết thấu đáo. Cho nên, nếu dựa vào các quy định hiện hành, rất khó để phân định giữa hành vi xâm phạm quyền sở công nghiệp và hành vi cạnh tranh bất hợp pháp liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp. Điều này gây khó khăn cho công việc giải quyết các vụ việc cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và ảnh hưởng đến lợi ích của các chủ thể liên quan. Hiện nay, chúng ta đang tiến hành sửa đổi Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 – đây là một trong những nội dung nên xem xét trong quá trình sửa đổi Luật này./.

(MINH KHUE LAW FIRM: Biên tập)

4. Một số ý kiến về cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt đọng ngân hàng ở Việt Nam

Cạnh tranh có vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ, là cơ sở khẳng định vị trí của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, cạnh tranh cũng có thể mang lại những hậu quả xấu đối với nền kinh tế, nhà sản xuất cũng như người tiêu dùng.

1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Cạnh tranh làm thay đổi cấu trúc xã hội trên phương diện sở hữu của cải, gây ra hiện tượng độc quyền, làm phân hóa mạnh mẽ giàu nghèo; cạnh tranh không lành mạnh, dùng các thủ đoạn vi phạm pháp luật hay bất chấp pháp luật… Do vậy, hoạt động cạnh tranh của các chủ thể kinh doanh trên thị trường bao giờ cũng phải được điều chỉnh bởi các định chế xã hội, sự can thiệp của nhà nước và tư duy cạnh tranh từ đối đầu sang hợp tác cùng có lợi là xu hướng tất yếu bảo đảm cho nền kinh tế phát triển bền vững.

Hoạt động ngân hàng là hoạt động mang nhiều rủi ro, những hậu quả từ hành vi cạnh tranh không lành mạnh phát sinh từ hoạt động ngân hàng không chỉ ảnh hưởng đến luồng chu chuyển vốn trong nền kinh tế mà nó còn làm ảnh hưởng đến mục tiêu an toàn hệ thống. Nhằm từng bước tạo lập môi trường cạnh tranh an toàn, lành mạnh, Nhà nước nghiêm cấm hành vi cạnh tranh không lành mạnh của các chủ thể tham gia thị trường. Tuy nhiên, hành vi cạnh tranh không lành mạnh, về bản chất là hành vi cạnh tranh không đẹp và thường nhằm vào các đối thủ cạnh tranh cụ thể. Do đó, việc phát hiện, xử lý một cách chính xác hành vi cạnh tranh không lành mạnh của các chủ thể tham gia thị trường cần phải được dựa trên hành lang pháp lý cụ thể, thống nhất. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin được trao đổi một số vấn đề pháp lý liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng.

Một số ý kiến về cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt đọng ngân hàng ở Việt Nam

gọi:

2. BẢN CHẤT CỦA HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH

Mặc dù còn nhiều quan niệm, cách diễn đạt khác nhau về cạnh tranh1, song, điểm chung của các quan niệm về cạnh tranh là: i) có ít nhất từ hai chủ thể trở lên; ii) các chủ thể này có chung mục đích; iii) các chủ thể đó cùng cố gắng giành và vượt lên các đối thủ cạnh tranh; iv) được diễn ra trong môi trường pháp lý bình đẳng cho mọi chủ thể kinh doanh, nếu không có môi trường pháp lý đó, cạnh tranh có thể đưa đến những hậu quả tiêu cực về xã hội. Kết quả của quá trình cạnh tranh là, nếu doanh nghiệp nào đáp ứng được yêu cầu trên thị trường sẽ tồn tại và phát triển, nếu doanh nghiệp nào không đáp ứng được yêu cầu đó sẽ bị loại ra khỏi thị trường, và để không bị loại “ra khỏi cuộc chơi”, các đối thủ cạnh tranh buộc phải tìm mọi cách, kể cả những biện pháp không lành mạnh, không phù hợp với đạo đức kinh doanh, đạo đức của thị trường để giành phần thắng về phía mình.

Hành vi cạnh tranh không lành mạnh có thể hiểu là những hành vi cạnh tranh của các chủ thể tham gia thị trường vi phạm những chuẩn mực đạo đức kinh doanh thông thường, có thể gây thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần cho các chủ thể kinh doanh khác và người tiêu dùng2. Quan điểm khác lại cho rằng, cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi cạnh tranh đi ngược lại các nguyên tắc xã hội, tập quán và truyền thống kinh doanh, xâm phạm đến lợi ích của chủ thể kinh doanh khác, lợi ích của người tiêu dùng và lợi ích chung của xã hội3. Cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi cụ thể, đơn phương, vì mục đích cạnh tranh của các chủ thể kinh doanh luôn thể hiện tính không lành mạnh (chứ không chỉ là bất hợp pháp) mà mục đích của nó là gây cho một hay một số đối thủ cạnh tranh cụ thể sự bất lợi hay gây thiệt hại trong hoạt động kinh doanh4.

Dưới góc độ pháp lý, hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng5. Nhìn chung, cách tiếp cận hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của pháp luật Việt Nam về cơ bản là phù hợp với Công ước Pari năm 1883 về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cũng như pháp luật một số nước. Bản chất pháp lý của hành vi cạnh tranh không lành mạnh chính là mọi hành vi trái với các chuẩn mực trung thực và lành mạnh trong quan hệ thương mại, gây thiệt hại chủ yếu đến doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh trên thị trường liên quan. Theo lý thuyết được thừa nhận rộng rãi ở các nước châu Âu lục địa, thì về bản chất, hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi vi phạm quyền dân sự; các yếu tố cấu thành của cạnh tranh không lành mạnh giống như các yếu tố cấu thành trách nhiệm dân sự truyền thống, đó là hành vi cạnh tranh không lành mạnh, lỗi, thiệt hại, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi cạnh tranh không lành mạnh và thiệt hại6.

Như vậy, khi đề cập đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh người ta thường nhấn mạnh đến tính “không lành mạnh” của hành vi cạnh tranh, tức là những hành vi cạnh tranh không đẹp, không phù hợp với đạo đức kinh doanh mà hệ quả của những hành vi này có thể sẽ dẫn đến gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng làm thay đổi tương quan cạnh tranh trên thị trường. Nhiệm vụ của Nhà nước là phải kiểm soát, phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường.

Từ những phân tích trên, bản chất của hành vi cạnh tranh không lành mạnh được thể hiện qua những dấu hiệu sau:

i) Đây là hành vi cạnh tranh của các chủ thể kinh doanh trong cùng một lĩnh vực nhất định như ngân hàng, bảo hiểm, may mặc, da giầy…;

ii) Hành vi này phải nhằm tới những đối thủ cạnh tranh cụ thể, xác định được trên cùng một phân khúc thị trường;

iii) Trái với các chuẩn mực đạo đức kinh doanh hoặc trái với pháp luật;

iv) Có thể gây thiệt hại cho đối thủ cạnh tranh, người tiêu dùng, Nhà nước hoặc các lợi ích xã hội khác.

3. HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG

Quan niệm về cạnh tranh, pháp luật về cạnh tranh ở Việt Nam ra đời muộn hơn so với các nước7. Trước khi Luật Cạnh tranh ra đời năm 2004, nội dung pháp luật cạnh tranh được quy định tản mạn trong rất nhiều văn bản pháp luật theo từng lĩnh vực, từng ngành nghề kinh doanh. Nằm trong bối cảnh chung đó, Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) 1997 (sửa đổi 2004) cũng dành Điều 16 quy định về hợp tác và cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng.

Tuy nhiên, quy định về cạnh tranh trong Luật Các TCTD 1997 (sửa đổi 2004) còn nhiều bất cập8. Theo quy định của Luật Các TCTD 1997 (sửa đổi 2004), các tổ chức hoạt động ngân hàng được hợp tác và cạnh tranh hợp pháp. Nghiêm cấm các hành vi cạnh tranh bất hợp pháp, gây tổn hại đến việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, an toàn hệ thống các TCTD và lợi ích hợp pháp của các bên.

Các hành vi cạnh tranh bất hợp pháp bao gồm:

– Khuyến mại bất hợp pháp;

– Thông tin sai sự thật làm tổn hại lợi ích của TCTD khác và của khách hàng;

– Đầu cơ lũng đoạn thị trường tiền tệ, vàng, ngoại tệ;

– Các hành vi cạnh tranh bất hợp pháp khác.

Luật Cạnh tranh được ban hành năm 2004 quy định về hành vi hạn chế cạnh tranh, hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Như vậy, điểm mới quan trọng trong Luật Cạnh tranh 2004 là phân biệt hành vi cạnh tranh thành hai loại là hành vi hạn chế cạnh tranh, hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

Điều 9 Luật Các TCTD số 47/2010/QH12 ngày 16/6/2010 quy định về hợp tác và cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng. Theo đó, TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được hợp tác và cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng và hoạt động kinh doanh khác theo quy định của pháp luật.

Nghiêm cấm hành vi hạn chế cạnh tranh hoặc hành vi cạnh tranh không lành mạnh có nguy cơ gây tổn hại hoặc gây tổn hại đến việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, an toàn của hệ thống các TCTD, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và giao cho Chính phủ quy định cụ thể các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng và hình thức xử lý các hành vi này.

Từ quy định của Luật Cạnh tranh, Luật Các TCTD 2010, có thể rút ra những dấu hiệu về hành vi cạnh tranh không lành mạnh của các TCTD như sau:

– Đó là hành vi của các TCTD phát sinh trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, trái với đạo đức thông thường trong kinh doanh9;

– Gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của TCTD khác hoặc với khách hàng. Về dấu hiệu này, cần quy định hết sức thận trọng, đặc biệt là xác định như thế nào là thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại, ai là người chứng minh thiệt hại. Theo chúng tôi thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh có thể là:

i) Thiệt hại ở đây được là những thiệt hại về vật chất, tức là ảnh hưởng tới doanh thu, khả năng sinh lợi trong hoạt động của đối thủ cạnh tranh và những tổn hại về uy tín của đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Về dấu hiệu có thể gây thiệt hại cần xem xét kỹ lưỡng, vì hoạt động ngân hàng rất nhạy cảm với những thông tin không tốt vì nó sẽ ảnh hưởng tới hoạt động của các TCTD, nó có thể “giết chết” một TCTD cũng như gây tác động xấu đối với xã hội, đặc biệt là bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền. Do vậy, khi có dấu hiệu có thể gây thiệt hại, đối thủ cạnh tranh cần tìm đến một giải pháp hỗ trợ từ phía cơ quan nhà nước có thẩm quyền để tránh thiệt hại cho cả hai bên cũng như đối với nền kinh tế và xã hội;

ii) Người phải chứng minh mức độ thiệt hại là đối thủ cạnh tranh của TCTD; cơ quan quản lý nhà nước trong quá trình thực thi công vụ nếu phát hiện ra hành vi cạnh tranh không lành mạnh thì phải báo cáo kịp thời đến Ngân hàng Nhà nước, Cục Quản lý cạnh tranh Bộ Công Thương để có biện pháp phối hợp xử lý;

iii) Thông thường, hành vi cạnh tranh không lành mạnh có mức độ ảnh hưởng tiêu cực trên thị trường hẹp, thường chỉ tác động lên một số chủ thể nhất định mà không ảnh hưởng đến một khu vực thị trường rộng như hành vi hạn chế cạnh tranh, ngay cả khi hành vi đó do tính chất mức độ nguy hại của nó xâm phạm đến các đối tượng được Luật Hình sự bảo vệ10. Tuy nhiên, đối với lĩnh vực ngân hàng, do sự khác biệt trong hoạt động, chúng tôi cho rằng, việc xác định mức độ ảnh hưởng của hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng cần được hiểu là trên phạm vi rộng, trên toàn bộ thị trường ngân hàng, bởi lẽ:

– Trong thực tiễn hoạt động, xu hướng hợp tác giữa các TCTD với nhau để cùng tồn tại và phát triển là tất yếu, vấn đề đặt ra là sự hợp tác của các TCTD được thực hiện đến đâu và đến mức nào là nội dung cần phải được quan tâm giải quyết triệt để. Chúng ta vẫn còn nhớ sự kiện Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu do tin đồn thất thiệt đã bị lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ, nếu không có sự cam kết của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước và sự hỗ trợ của Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại trên địa bàn thì nguy cơ phá sản ngân hàng này là điều có thể xảy ra. Bên cạnh đó, trong hoạt động các TCTD hỗ trợ cho nhau. Sự hợp tác giữa các TCTD chỉ thật sự bình đẳng, thân thiện và minh bạch nếu việc hợp tác này diễn ra công khai, rõ ràng và có thể kiểm soát được.

– Hoạt động kinh doanh ngân hàng là hoạt động rủi ro rất cao, thường xuyên chịu sự tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô như tình trạng lạm phát, thay đổi trong chính sách của Ngân hàng Nhà nước và dựa trên niềm tin của người gửi tiền nên nếu ngân hàng “gặp sự cố” thì sẽ ảnh hưởng đến nguồn cung cấp vốn cho nền kinh tế.

– Trong quá trình hội nhập và phát triển hiện nay, các TCTD tiếp nhận kỹ thuật, công nghệ, sản phẩm kinh doanh và dịch vụ ngân hàng; đặc biệt, trong những năm gần đây, số lượng sản phẩm kinh doanh và dịch vụ ngân hàng mới tăng lên nhanh chóng về quy mô và đa dạng về loại hình càng làm cho vấn đề kiểm soát hành vi cạnh tranh không lành mạnh trở nên khó khăn và phức tạp hơn.

4. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

4.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam

Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011 – 2020 vừa được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI thông qua đã xác định rõ “Tạo lập đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường… Phát triển thị trường tài chính với cơ cấu hoàn chỉnh, quy mô tăng nhanh, phạm vi hoạt động mở rộng, vận hành an toàn, được quản lý và giám sát hiệu quả”; “Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh, bảo vệ người tiêu dùng”.Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 kèm theo Quyết định số 112/2006/QĐ-TTg ngày 24/05/2006 đã xác định định hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng đến năm 2010 như sau: “Xây dựng môi trường pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ, hoạt động ngân hàng minh bạch và công bằng nhằm thúc đẩy cạnh tranh và bảo đảm an toàn hệ thống tiền tệ, ngân hàng.

Các chính sách và quy định pháp luật về tiền tệ, hoạt động ngân hàng góp phần tạo môi trường lành mạnh và động lực cho các TCTD, doanh nghiệp và người dân phát triển sản xuất kinh doanh. Loại bỏ các hình thức bảo hộ, bao cấp, ưu đãi trong lĩnh vực ngân hàng và phân biệt đối xử giữa các TCTD”.

Từ định hướng phát triển trên, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động cạnh tranh của các TCTD như Luật Cạnh tranh 2004 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Các TCTD 2010. Tuy nhiên, có thể nhận thấy, những quy định này còn chung chung, chưa phản ánh được những nét đặc thù trong việc điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng. Ngoài ra, thực tiễn thi hành pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng đã phát sinh những khó khăn bất cập nhất định, bản thân hành vi cạnh tranh không lành mạnh, tiêu chí xác định mang tính trừu tượng, khó xác định và cũng khó chứng minh. Điều này đặc biệt nguy hại đối với hoạt động ngân hàng, vì hoạt động ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn đến mọi mặt của đời sống xã hội.

Hoạt động cung ứng các dịch vụ ngân hàng chịu sự chi phối mạnh mẽ chính trị, việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng được đặt dưới sự kiểm duyệt hết sức chặt chẽ của các nhà cầm quyền. Bởi như chúng ta đều biết, hoạt động ngân hàng mang tính nhạy cảm và độ rủi ro rất cao, có liên quan đến an ninh nền kinh tế. Nếu có khủng hoảng kinh tế xảy ra thì rất dễ dàng dẫn đến các biến động về chính trị. Những kinh nghiệm rút ra từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 ở châu Á là ở chỗ nhà nước có quản lý được các hoạt động ngân hàng hay không. Bởi thế, khi cho phép các tổ chức, cá nhân trong nước cũng như ngoài nước cung cấp các dịch vụ ngân hàng, quốc gia nào cũng đặt vấn đề an ninh nền kinh tế lên hàng đầu, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển khi phải thực thi các cam kết quốc tế liên quan đến dịch vụ ngân hàng. Đó chính là lý do giải thích tại sao trong các cuộc đàm phán gia nhập tổ chức thương mại thế giới các quốc gia khó đi đến được các thỏa thuận cần thiết cho việc gia nhập tổ chức quốc tế có uy tín này.

Bên cạnh đó, việc xác định thế nào là chuẩn mực đạo đức kinh doanh, các nguyên tắc xã hội, tập quán và truyền thống kinh doanh cũng rất khó khăn. Là nước đang trong giai đoạn chuyển đổi, vừa làm vừa rút kinh nghiệm thì sẽ rất khó cho việc xác định chuẩn mực đạo đức kinh doanh. Không những thế, trong Luật Các TCTD hiện hành cũng mới chỉ quan tâm đến quy định phẩm chất đạo đức của những người nắm giữ các chức danh quản lý điều hành của TCTD; vấn đề rủi ro đạo đức của cán bộ ngân hàng khi tác nghiệp mới được đề cập trong thời gian gần đây. Trong khi đó, Luật Các TCTD năm 2010 mới có hiệu lực và Chính phủ hiện đang tiến hành xây dựng dự thảo nghị định quy định về hành vi cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng cùng với việc xuất hiện ngày càng nhiều hành vi cạnh tranh không lành mạnh, chúng tồn tại ở tất cả các lĩnh vực kinh doanh ngân hàng như: Thu hút tiền gửi với mức lãi suất tiền gửi cao hơn tại một số ngân hàng khiến cho tiền gửi chuyển lòng vòng từ ngân hàng này sang ngân hàng khác; quảng cáo đưa ra không đúng hoặc gây hiểu lầm về nguồn lực tài chính, đưa ra những báo cáo kiểm toán gây hiểu lầm để hỗ trợ những quảng cáo, với quan điểm là để thu hút người gửi tiền từ những ngân hàng khác; khoản vay lãi suất thấp hơn cho khách hàng của một lĩnh vực cụ thể so với lãi suất cho người vay các khu vực khác; cho một khách hàng vay để họ có thể sử dụng khoản vay đó như là một khoản tiền gửi tối thiểu để mở một tài khoản;…11 thì việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng cần được tiến hành khẩn trương, phù hợp với diễn diến của thị trường.

4.2. Một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về hành vitrong lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam hiện nay

Thứ nhất, làm rõ quan niệm “hợp tác” và “cạnh tranh” trong hoạt động ngân hàng làm cơ sở cho việc xác định hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng. Theo từ điển tiếng Việt, cạnh tranh là “đua tranh với nhau giữa những người theo đuổi cùng một mục đích, nhằm đánh bại đối thủ và giành cho mình thế có lợi nhất”12, hợp tác là “cùng chung sức, giúp đỡ lẫn nhau trong một công việc, một lĩnh vực nào đó nhằm một mục đích chung”13. Như đã phân tích ở trên, trong hoạt động, các TCTD có mối liên hệ khá chặt chẽ với nhau, tuy nhiên, có những chủ thể lợi dụng việc hợp tác giữa các chủ thể kinh doanh để trục lợi bất hợp pháp hoặc gây khó khăn cho đối tác. Do vậy, theo chúng tôi, hành vi lợi dụng “chính sách hợp tác” trong kinh doanh hoặc theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước của TCTD phải được coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

Thứ hai, về khái niệm hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng, dự thảo nghị định quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng và hình thức xử lý đối với những hành vi này14 (sau đây gọi chung là dự thảo nghị định) quy định “Hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng là hành vi cạnh tranh của tổ chức và cá nhân có liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng vì quá chạy theo mục tiêu lợi nhuận mà trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, có nguy cơ gây tổn hại hoặc gây tổn hại đến việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, an toàn của hệ thống các TCTD, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân khác”. Với quan niệm này, dấu hiệu quan trọng để xác định hành vi cạnh tranh không lành mạnh là “vì quá chạy theo mục tiêu lợi nhuận” mà thực hiện các hành vi vi phạm “chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh”, chúng tôi cho rằng, với quy định này, dự thảo nghị định đã thu hẹp quá nhiều hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Thực tế cho thấy, việc thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh của các chủ thể trên thị trường không phải lúc nào cũng vì mục tiêu lợi nhuận, trong thực tế, để gây khó khăn cho đối thủ cạnh tranh, các chủ thể kinh doanh đã “hi sinh mục tiêu lợi nhuận”, vậy hành vi này có được coi là cạnh tranh không lành mạnh không?

Không những thế, bản chất của hành vi cạnh tranh không lành mạnh là chủ thể kinh doanh sử dụng nhiều biện pháp, hành vi trái với chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh để gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho đối thủ cạnh tranh. Do đó, chúng tôi cho rằng, khái niệm hành vi cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng nên quy định như sau “Hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng là hành vi của các tổ chức, cá nhân có liên quan trong hoạt động ngân hàng trái với những chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp khác của TCTD, đến việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, an toàn của hệ thống các TCTD”. Chúng tôi cho rằng, không cần quy định gây thiệt hại cho Nhà nước, bởi lẽ, lợi ích của Nhà nước, của xã hội đã được thể hiện trong việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, an toàn của hệ thống các TCTD rồi.

Thứ ba, đề xuất sửa đổi, bổ sung một số quy định cụ thể:

– Quy định tại Khoản 3, Điều 3 dự thảo nghị định cần bỏ cụm từ “dưới đây” vì không có nghĩa và chỉnh sửa quy định này như sau: “Xử phạt vi phạm tại Nghị định này được hiểu là xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng”.

– Khái niệm hoạt động ngân hàng theo quy định tại Khoản 2, Điều 3 dự thảo nghị định cần tuân thủ quy định tại Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật Các TCTD vừa ban hành, không nên mở rộng bằng cách bổ sung “hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối” vì đây là một nội dung kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng nếu TCTD đã đăng kí với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

– Điểm b, Khoản 1, Điều 4 không phù hợp với nội dung quy định tại Khoản 1, Điều 3 dự thảo nghị định.

– Điều 6 dự thảo nghị định cần được quy định theo hướng cụ thể hóa, bởi lẽ, Luật Các TCTD năm 2010 không có quy định về căn cứ xử lý đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh, nội dung quy định tại Điều 7 Nghị định 120/2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005 quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh là để áp dụng chung đối với các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh nên khó có thể áp dụng để xử lý đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng. Theo chúng tôi, nội dung

điều này nên quy định theo định hướng sau đây:

“Điều 6. Căn cứ xác định mức độ xử lý đối với các hành vi vi phạm Khi xác định mức độ xử lý đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng, cơ quan có thẩm quyền có quyền căn cứ vào một hoặc một số yếu tố sau đây:

1. Mức độ thiệt hại do hành vi vi phạm gây ra.

2. Khả năng gây hạn chế cạnh tranh của các đối tượng vi phạm.

3. Khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm.

4. Mức độ ảnh hưởng của hành vi vi phạm đối với việc thực hiện chính sách tiền tệ, khả năng bảo đảm an toàn đối với hệ thống ngân hàng.

5. Các tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng được quy định tại Điều 8 của Nghị định 120/2005/NĐ-CP ngày 30 tháng 9 năm 2005 của Chính phủ quy định về xử lý vi phạm trong lĩnh vực cạnh tranh”.

– Không nên quy định hình thức xử phạt cảnh cáo vì mức độ ảnh hưởng của hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng thường rất lớn nên khó có thể áp dụng biện pháp xử phạt này. Nâng mức xử phạt vi phạm hành chính lên mức cao nhất 500.000.000 đồng (Năm trăm triệu đồng) và nâng thẩm quyền xử phạt tương ứng, cụ thể như sau:

i) Tăng thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với thanh tra viên đang thi hành công vụ có quyền xử phạt 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng).

ii) Chánh Thanh tra giám sát Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có quyền xử phạt tối đa 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng).

iii) Chánh Thanh tra giám sát ngân hàng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có quyền xử phạt 500.000.000 đồng (Năm trăm triệu đồng).

iv) Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh có quyền xử phạt 500.000.000 đồng (Năm trăm triệu đồng).

– Dự thảo Nghị định chưa có quy định về cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận và giải quyết đơn khiếu nại/tố cáo hành vi cạnh tranh không lành mạnh khi người bị thiệt hại có đơn yêu cầu. Do đó, chúng tôi đề nghị nên bổ sung thêm thủ tục nhận và giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng. Cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận và xử lý hành vi này là Cơ quan Thanh tra giám sát ngân hàng. Trong trường hợp đặc biệt có thể phối hợp với Cục Quản lý cạnh tranh để xử lý.

(: Biên tập)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *