Đi sai làn đường gây tai nạn bị xử lý thế nào ?

Xin chào bạn đến với chuyên trang tư vấn dịch vụ pháp luật. Sau đây là một số nội dung chỉ mang tính chất tham khảo. các bạn có thể đọc để hiểu thêm nhé.

Lỗi đi san làn đường, phần đường là một trong những lỗi khá phổ biến khi tham gia giao thông. Trong một số trường hợp việc đi sai làn đường có thể gây tai nạn và phát sinh quan hệ bồi thường thiệt hại. xin giấy phép phân tích một số trường hợp cụ thể để khách hàng tham khảo:

Thưa luật sư, Em bị tai nạn xe thương tật la 80% và mất 1 chân.bên gay tai nạn chạy nhanh va sai làng đừơng.vậy ra toà mức bồi thừờng cho em sẽ như thế nao.

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị đến Bộ phận luật sư của Công ty Xin giấy phép. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn như sau:

1. Cơ sở pháp lý:

 ()

 (, )

2. Nội dung tư vấn:

Theo quy định tại Điều 605 Bộ luật Dân sự năm 2005 về nguyên tắc bồi thường thiệt hại:

“Điều 605. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại

1. Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thoả thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

2. Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình.

3. Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người bị thiệt hại hoặc có quyền yêu cầu Toà án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường.”

Như vậy, trong trường hợp của bạn, nếu việc để xảy ra tai nạn là do lỗi hoàn toàn của phía bên kia, thì lúc này, họ có trách nhiệm phải bồi thường cho bạn toàn bộ các chi phí phát sinh liên quan đến thiệt hại về sức khỏe, tài sản của bạn. Theo đó, bạn và phía bên gây tai nạn có thể thỏa thuận với nhau về mức bồi thường, còn nếu không thể thỏa thuận bạn có quyền yêu cầu tòa án giải quyết, thì các khoản cần phải bồi thường tại Điều 609 Bộ luật dân sự 2005 quy định gồm:

“1. Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm bao gồm:

a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;

b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;

c) Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả cho việc chăm sóc người bị thiệt hại.

2. Người xâm phạm sức khoẻ của người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá ba mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định.”

Như vây, nếu thiệt hại sức khỏe của bạn là đến 81% thì lúc này, để xác định mức bồi thường của bên gây tai nạn, bạn có thể tự xác định các khoản chi phí hợp lý (là chi phí thực tế cần thiết, phù hợp với tính chất, mức độ của thiệt hại, phù hợp với gá trung bình ở từng địa phương tại thời điểm chi phí.) để yêu cầu phía bên kia bồi thường cho mình. Bởi pháp luật dân sự không quy định mức bồi thường cụ thể trong từng trường hợp.

Luật sư cho em hỏi :Vì em trai đi sai làn đường và đã gây tai nạn cho 1 người, người đàn ông đi xe lại không đội mủ bảo hiểm. Còn tất cả mọi chi phí của bệnh viện và kiểm tra sức khỏe cho những làn tái khám thì bên gia đình em hoàn toàn chi trả. Nếu giám định ông đó thương tật trên 31% em trai em có chịu trách nhiệm hình sự và bồi thường thiệt hại gì không và ngược lại dưới 31% thì thì sao ạ ? Em cảm ơn luật sư ạ.

Theo quy định của Điều 202 Bộ luật hình sự về tội vi phạm quy định về điều khiển giao thông đường bộ thì tại khoản 1 có quy định: “1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.”

Theo đó, việc gây thiệt hại nghiêm trọng này được hướng dẫn tại Điều 4 Nghị quyết số 02/200/NQ-HĐTP thì bao gồm trường hợp làm bị thương cho 1 đến 2 người, mà tỉ lệ thương tật của mỗi người là từ 31% trở lên, hoặc Gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ thương tật từ 21% đến 30% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng; 

Như vậy, trong trường hợp này, nếu thiệt hại về sức khỏe của nạn nhân là từ 31% trở lên, hoặc thiệt hại về sức khỏe từ 21-30% và thiệt hại về tài sản từ 30 triệu đồng trở lên thì em trai bạn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 202 BLHS như trên. Và gược lại, nếu em trai bạn không thuộc vào một trong những trường hợp kể trên, thì em trai bạn chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi vi phạm luật giao thông đường bộ, và chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại về sức khỏe và tài sản cho nạn nhân theo quy định tại Điều 605 Bộ luật dân sự.

Thưa luật sư! Trên đường đi chơi! Toi có bị csgt thổi còi vì tội đi sai làn đường quy định! Khi tôi yêu cầu xem bằng chứng thì csgt nói rằng camera quay lại được nhưng do cơ sở vật chất yếu kém nén k thể cho xem ngay được muốn xem thì đóng tiền phạt rồi 7 ngày sau lên đồn xem! Vậy tôi muốn hỏi trong trường hợp như trên! Thì csgt làm như vậy có đúng hay không? Tôi xin trân thành cảm ơn!

Theo quy định tại Điều 58 Luật năm 2012:

“Điều 58. Lập biên bản xử lý vi phạm hành chính

1. Khi phát hiện vi phạm hành chính thuộc lĩnh vực quản lý của mình, người có thẩm quyền đang thi hành công vụ phải kịp thời lập biên bản, trừ trường hợp xử phạt không lập biên bản theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật này.

Trường hợp vi phạm hành chính được phát hiện nhờ sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật, nghiệp vụ thì việc lập biên bản vi phạm hành chính được tiến hành ngay khi xác định được tổ chức, cá nhân vi phạm.”

Như vậy, trong trường hợp của bạn, nếu cảnh sát giao thông phát hiện ra hành vi vi phạm thông qua thiết bị kỹ thuật thì phải lập biên bản về hành vi vi phạm của bạn. Theo đó, pháp luật về xử lý vi phạm hành chính quy định trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày lập biên bản, người có thẩm quyền sẽ xử phạt về hành vi của bạn, lúc này, bạn có thể kiểm tra thông tin từ thiết bị kỹ thuật, để có cơ sở về việc sai phạm bị xử lý của mình. 

Xin chào luật sư.lu ật sư cho em hỏi? Ngày 29/2/2016 em đang điều khiển xe trên đường .không và không đi sai phần đường.đột nhiên có 1 chiếc xe máy chạy từ phiá sau tới và vaò phiá hông bánh sau đầu kéo ngã ra đường bị bánh sau rơ moóc cuả xe chèn lên.em không biết lên vẫn cho xe chạy được khoảng 500 mét thì được ngườ dân đi đường gọi lại và đưa người bị lạn đi cấp cưú.đến hôm nay lạn nhân đã qua đời.vậy luật sư cho em hỏi trừơng hợp cuả em có bị chuy tố trách nhiệm hình sự không?và em phải đền bù gia đình nạn nhân và bị phạt tiền bao nhiêu ạ?em cảm ơn!

Trong trường hợp của bạn, để xét bạn có bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Vi phạm quy định an toàn giao thông đường bộ được quy định tại Điều 202 Bộ luật hình sự hay không, thì cần phải làm rõ: việc xảy ra vụ việc tai nạn như trên là do lỗi của ai. Bởi, để bị truy cứu thì bạn phải có hành vi vi phạm luật giao thông đường bộ, và việc vi phạm này là nguyên nhân dẫn đến vụ việc tai nạn. Ngoài ra, nếu bạn có lỗi trong vụ việc này, bạn có thể bị xử phạt hành chính, xử phạt cải tạo không giam giữ, phạt tù (khoản 1 Điều 202), thì bạn còn phải bồi thường thiệt hại cho nạn nhân theo nguyên tắc quy định tại Điều 605, và Điều 609 của Bộ luật dân sự năm 2005 về các loại chi phí phải bồi thường khi gây ra thiệt hại về tính mạng của người khác.

Và ngược lại, nếu để xảy ra vụ việc trên hoàn toàn là do lỗi của nạn nhân, thì lúc này không làm phát sinh căn cứ bồi thường thiệt hại cho bạn, cũng như căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này.

Một vấn đề cần lưu ý về yếu tố lỗi: Ngoài những căn cứ thông thường về việc điều khiển phương tiện giao thông như: quá tốc độ cho phép, điều khiển xe sai làn đường quy định, quá mức cho phép…thì đối với phương tiện của bạn, còn cần phải đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật về xe rơ-mooc (Bạn có thể tham khảo Quy chuẩn được ban hành kèm theo Quyết định số 30/2005/QĐ-BGTVT). Bởi nếu phương tiện của bạn không đảm bảo quy chuẩn an toàn kỹ thuật mà gây ra tai nạn, thì lúc này bạn vẫn phải bồi thường thiệt hại cho nạn nhân.

ần sự trợ giúp Kính gửi : Cty Luật MINH KHUÊ Em là Mr. Hùng Em có một số vấn đề sau cần được tư vấn mong Cty tư vấn giải thích dùm em Em xin chân thành cám ơn Sự việc như sau : – Chú em và 1 người cùng làng đi đám cưới xa bằng xe máy ( chú em cầm lái ) sau khi song tiệc cưới cả 2 cùng có men rượu trong người khi đi về trên tuyến đường đang thi công khi đến đoạn đường xấu thì có 2 oto đi ngược chiều tránh nhau và va chạm với xe máy chú em – tai nạn sảy ra chú em không việc gì nhưng người ngồi sau xe máy chú em bị thương phải nằm viện – Hôm sau công an tới nhà chú em báo chú em sai vì điều khiển xe khi say ruoự và oto va chạm sai do đi sai phần đường nên chú em phải bồi thường cho người ngồi sau xe mình (Công an khám nghiệm hiện trường và chú em lúc đầu nói đi với tốc độ khoảng 20km/h Nhưng Người ngồi sau khai với CA chú em đi với tốc độ 80km/h trên đường đang thi công với xe máy ) Em trai người ngồi sau là trưởng công an xã Vậy Thưa luật sư Chú em phải bồi thường cho người ngồi sau có đúng hay không Và theo luật chú em phải chịu trách nhiệm như thế nào Cám ơn luật sư nhiều. — Chào trân trọng

Theo quy định tại Điều 604 Bộ luật dân sự năm 2005 về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại thì:

“Điều 604. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại

1. Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.

2. Trong trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi thường cả trong trường hợp không có lỗi thì áp dụng quy định đó.”

Vì vậy, để xác định mức bồi thường thiệt hại thì cần phải xác định được yếu tố lỗi trong vụ việc tai nạn này. Bởi theo phần trình bày của bạn, chú của bạn đã uống rượu khi điều khiển phương tiện giao thông là không đúng quy định của pháp luật (nếu vượt quá nồng độ cồn cho phép). Ngoài ra, nếu có căn cứ để cho rằng chú bạn điều khiển xe vượt quá tốc độ cho phép trên đoạn đường đó, cũng như không đúng phần đường, thì lúc này chú bạn phải bồi thường thiệt hại cho người ngồi sau dựa trên nguyên tắc được quy định tại Điều 609 Bộ luật dân sự năm 2005.

Còn nếu trên thực tế chú của bạn điều khiển xe đúng tốc độ cho phép, không đi sai làn đường, thì lúc này chú bạn vẫn phải bồi thường cho nạn nhân (nếu nồng độ cồn của chú bạn vượt quá lượng cho phép), nhưng mức bồi thường ít hơn trong trường hợp trên. Còn trong trường hợp không có cơ sở, nhưng những người công an vẫn ra quyết định về mức bồi thường không thoả đáng, không phù hợp với mức độ lỗi của chú bạn thì gia đình chú bạn có quyền khiếu nại trực tiếp với cơ quan đã ra quyết định.

Chào luật sư! Luật sư có thể cho tôi hỏi vấn đề này được không? Vừa rồi tôi có mua lại chiếc xe cũ mà chưa sang tên đổi chủ, hiện giờ chủ ở đâu cũng không rõ. Trong lúc đi làm tôi bị tai nạn giao thông người khác tông vào tôi.nếu như tôi phạm luật thì tôi sẽ bị phạt và tôi có thể lấy xe được không. Cavet xe đầy đủ nhưng tên chủ cũ. Tôi cảm ơn luật sư đã giúp đỡ. Được gửi từ Thư Outlook dành cho điện thoại Windows 10

Theo quy định của pháp luật, xe máy là động sản cần phải đăng ký quyền sở hữu. Theo đó, Điều 439 Bộ luật dân sự quy định về vấn đề này:

“Điều 439. Thời điểm chuyển quyền sở hữu

1. Quyền sở hữu đối với tài sản mua bán được chuyển cho bên mua kể từ thời điểm tài sản được chuyển giao, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.

2. Đối với tài sản mua bán mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì quyền sở hữu được chuyển cho bên mua kể từ thời điểm hoàn thành thủ tục đăng ký quyền sở hữu đối với tài sản đó.”

Như vậy, về mặt pháp lý, pháp luật chưa thừa nhận quyền sở hữu chiếc xe đó là của bạn nếu bạn chưa thực hiện thủ tục chuyển nhượng chiếc xe này. Hơn nữa, Thông tư số 01/2008/TT-BGTVT quy định trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày bạn mua xe thì bạn cần phải thực hiện thủ tục chuyển nhượng. Trong trường hợp của bạn, bạn bị tai nạn giao thông và cảnh sát giao thông đang tạm giữ phương tiện của bạn. Lúc này, nếu bạn có giấy tờ mua bán quyền sở hữu của chiếc xe và các giấy tờ khác liên quan đến xe thì bạn vẫn được nhận lại tài sản này về, và bị xử phạt vi phạm hành chính trong trường hợp này.

Ở Bệnh viện đa khoa nơi tôi đang sinh sống. Tối ngày 21/11/2015 có 1 bệnh nhân bị tai nạn giao thông được người dân đưa vào bệnh viện dể cấp cứu. Nhân viên y tế yêu cầu phải nộp đủ 500.000 đồng thì mới cấp cứu như vậy có đúng với quy định của Luật y tế không? Xin cảm ơn luật sư

Thqo quy định tại Điều 2 Quy chuẩn cấp cứu được ban hành kèm theo Quyết định số 01/2008/QĐ-BYT thì:

“2. Tất cả các trường hợp cấp cứu, hồi sức tích cực và chống độc các cán bộ y tế phải khẩn trương thực hiện nhiệm vụ theo mức độ ưu tiên, không được gây khó khăn về thủ tục hành chính, không được đùn đẩy người bệnh, người bị nạn (sau đây gọi chung là người bệnh).”

Theo đó, thủ tục cấp cứu khi có bệnh nhân thì các bác sĩ phải có trách nhiệm tiếp nhận bệnh nhân và có các biện pháp kịp thời, sau đó mới thu tiền tạm phí nếu người nhà bệnh nhân không thể thực hiện kịp thời thủ tục nhập viện cho bệnh nhân. Vì vậy, nhân viên y tế bạn phải nộp đủ 500.000 đồng rồi mới cấp cứu là yêu cầu không đúng quy định của pháp luật. VÌ vậy, bạn có thể trình báo vụ việc này với giám đốc bệnh viện hoặc người có thẩm quyền khác để có biện pháp xử lý, khắc phục.

Thưa luật sư. Tôi gây tai nạn giao thông trên cao tốc. Thiệt hại tài sản cả bên cao tốc và bên xe oto tôi điều khiển trên 70 triệu đồng. Tôi đã bồi thường thiệt hại xong và đã có của bên cao tốc thì có bị bên công an khởi tố hình sự không. Kính mong luật sư tư vấn. Tôi xin cảm ơn!

Theo phần trình bày của bạn, có thể hiểu, phía nạn nhân đã làm đơn tố giác bạn về hành vi vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của người khác, được quy định tại Điều 145 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi năm 2009. 

Theo đó, Điều luật này quy định: 

1. Người nào vô ý gây thiệt hại cho tài sản của người khác có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.”

Hơn nữa, Điều 105 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định về các trường hợp khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại có quy định:

“1. Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của bộ luật hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.

2. Trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải được đình chỉ.”

Có thể thấy, những trường hợp đình chỉ vụ án khi người bị hại rút đơn yêu cầu không có quy định về trường hợp được quy định tại Điều 145. Vì vậy, kể cả những người bị hại đã rút đơn thì bạn vẫn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này, việc bạn đã bồi thường cho họ chỉ được xác định như là tình tiết giảm nhẹ khi đã khắc phục hậu quả.

chào luật sư ! Tôi muốn hỏi ,bố tôi trên đường đi công tác bị tai nạn giao thông đã chết , để giải quyết chế độ bảo hiểm cho bố tôi , hiện tại gia đình nhà tôi mẹ tôi và chúng tôi đều đang công tác , ông bà nội ,ông ngoại đã chết chỉ còn bà ngoại tôi nhưng hiện tại bà ngoại tôi đang hưởng chế độ tuất liệt sỹ của ông tôi và trợ cấp tuổi già. như vậy xin hỏi luật sư trường hợp của bố tôi thì được giải quyết chế độ tuất một lần hay tuất hàng tháng . xin cảm ơn luật sư

Theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 về điều kiện hưởng chế độ tuất hàng tháng thì:

“Điều 67. Các trường hợp hưởng trợ cấp tuất hàng tháng

1. Những người quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 66 của Luật này thuộc một trong các trường hợp sau đây khi chết thì thân nhân được hưởng tiền tuất hằng tháng:

a) Đã đóng bảo hiểm xã hội đủ 15 năm trở lên nhưng chưa ;

b) Đang hưởng lương hưu;

c) Chết do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;

d) Đang hưởng , bệnh nghề nghiệp hằng tháng với mức suy giảm khả năng lao động từ 61 % trở lên.

2. Thân nhân của những người quy định tại khoản 1 Điều này được hưởng trợ cấp tuất hằng tháng, bao gồm:

a) Con chưa đủ 18 tuổi; con từ đủ 18 tuổi trở lên nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên; con được sinh khi người bố chết mà người mẹ đang mang thai;

b) Vợ từ đủ 55 tuổi trở lên hoặc chồng từ đủ 60 tuổi trở lên; vợ dưới 55 tuổi, chồng dưới 60 tuổi nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên;

c) Cha đẻ, mẹ đẻ, cha đẻ của vợ hoặc cha đẻ của chồng, mẹ đẻ của vợ hoặc mẹ đẻ của chồng, thành viên khác trong gia đình mà người tham gia bảo hiểm xã hội đang có nghĩa vụ nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình nếu từ đủ 60 tuổi trở lên đối với nam, từ đủ 55 tuổi trở lên đối với nữ;

d) Cha đẻ, mẹ đẻ, cha đẻ của vợ hoặc cha đẻ của chồng, mẹ đẻ của vợ hoặc mẹ đẻ của chồng, thành viên khác trong gia đình mà người tham gia bảo hiểm xã hội đang có nghĩa vụ nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình nếu dưới 60 tuổi đối với nam, dưới 55 tuổi đốivới nữ và bị suy giảm khả năng lao động từ 81 % trở lên.”

Như vậy, nếu cha của bạn thuộc vào một trong những trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều này, thì mẹ bạn có thể được hưởng tiền trợ cấp hàng tháng (nếu mẹ bạn từ đủ 55 tuổi trở lên), và bà ngoại của bạn cũng được nhận tiền trợ cấp tuất hàng tháng, nếu thoả mãn quy định tại điểm c khoản 2 như trên, trong trường hợp thân nhân đủ điều kiện để hưởng trợ cấp tuất hàng tháng mà có yêu cầu nhận trợ cấp 1 lần thì được giải quyết nhận 1 lần.

Còn nếu không thuộc vào các trường hợp như trên, mà thuộc vào một trong các trường hợp được quy định tại Điều 69 như sau:

“Điều 69. Các trường hợp hưởng trợ cấp tuất một lần

Những người quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 66 của Luật này thuộc một trong các trường hợp sau đây khi chết thì thân nhân được hưởng trợ cấp tuất một lần:

1. Người lao động chết không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 67 của Luật này;

2. Người lao động chết thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 67 nhưng không có thân nhân hưởng tiền tuất hằng tháng quy định tại khoản 2 Điều 67 của Luật này;

3. Thân nhân thuộc diện hưởng trợ cấp tuất hằng tháng theo quy định tại khoản 2 Điều 67 mà có nguyện vọng hưởng trợ cấp tuất một lần, trừ trường hợp con dưới 06 tuổi, con hoặc vợ hoặc chồng mà bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên;

4. Trường hợp người lao động chết mà không có thân nhân quy định tại khoản 6 Điều 3 của Luật này thì trợ cấp tuất một lần được thực hiện theo quy định của pháp luật về thừa kế.”

thì thân nhân được giải quyết hưởng trợ cấp tuất một lần.

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn luật giao thông – Minh Khuê 

Nếu bạn cần thêm thông tin xin đặt câu hỏi vào ô hỏi đáp bên dưới để chúng tôi có thể hỗ trợ cho bạn nhiều hơn. Xin chân thành cảm ơn.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *