Di chúc lập trong tình trạng sức khỏe yếu có hiệu lực pháp lý không?

Thưa luật sư, xin hỏi: năm 2016, mẹ tôi có lập di chúc cho tôi toàn bộ tài sản của bà. Tôi là con trai cả, sau tôi là 2 em gái đều đã thành niên. Việc lập di chúc có sự chứng kiến của bố tôi và 3 anh em. Nội dung trong di chúc ghi rõ mẹ tôi đều đồng ý cho tôi toàn bộ tài sản.

Mục lục bài viết

Tuy nhiên trong di chúc do sức khỏe mẹ tôi quá yếu không có khả năng kí và điểm chỉ ( không mất khả năng nhận thức) mà chỉ có xác nhận của ủy ban nhân dân xã. Vậy di chúc của mẹ tôi có hiệu lực không. Cảm ơn.

Câu hỏi được biên tập từ chuyên mục tư vấn luật Dân sự của

>>

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư của Công ty Xin giấy phép. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

1. Cơ sở pháp lý

B

2.

*Di chúc có hiệu lực không?

Theo Điều 630 quy định về di chúc hợp pháp:

“1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:

a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép;

b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.

2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.

3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.

4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.

5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.”

Như vậy, tại thời điểm mẹ bạn lập di chúc dù sức khỏe mẹ bạn yếu, không có khả năng ký và điểm chỉ, nhưng không mất khả năng nhận thức và làm chủ hành vi thì mẹ bạn có quyền được lập di chúc. Đồng thời việc lập di chúc được xuất phát từ chính nguyện vọng, mong muốn của mẹ bạn mà không phải do bị ép buộc, đe dọa.

Đối với người bị hạn chế về thể chất, nhằm bảo đảm quyền lợi của người lập di chúc, pháp luật đã quy định tại Khoản 2 Điều 636:

“2. Trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp xã chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng.”

Đồng thời pháp luật cũng quy định cụ thể hơn về người làm chứng cho việc lập di chúc tại Điều 632

“Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây:

1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;

2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc;

3. Người chưa thành niên, , người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.”

Trong trường hợp của bạn, tại thời điểm mẹ bạn lập di chúc có sự chứng kiến của bố bạn, bạn và 2 em bạn. Bởi vì bạn là người thừa kế theo di chúc, bố bạn là người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc thì nghiễm nhiên 2 em bạn là người làm chứng cho việc lập di chúc. Một trong hai em của bạn phải ký xác nhận trước mặt người có thẩm quyền của Ủy ban nhân dân xã. Đồng thời, người có thẩm quyền của Ủy ban nhân dân xã sẽ chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng. Như vậy, di chúc có hiệu lực kể từ thời điểm thời điểm mở thừa kế -thời điểm người lập di chúc chết và nó là di chúc hợp pháp và là di chúc cuối cùng mà người lập di chúc để lại trước khi chết.

* Những trường hợp thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc

Điều 644. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc

1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:

a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;

b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.

2. Quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 620 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 621 của Bộ luật này.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận số: để được giải đáp.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật Dân sự – Công ty luật Minh Khuê

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *