Bị tai nạn và không đội mũ bảo hiểm thì xử lý như thế nào ?

Xin chào bạn đến với chuyên trang tư vấn dịch vụ pháp luật. Sau đây là một số nội dung chỉ mang tính chất tham khảo. các bạn có thể đọc để hiểu thêm nhé.

xin giấy phép giải đáp các thắc mắc về quy định an toàn giao thông và các vấn đề liên quan.

Chào bạn, Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Công ty Xin giấy phép. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

1. Cơ sở pháp lý:

– 

– 

– 

– 

– 

2. Nội dung phân tích:

Bộ luật hình sự quy định:

“Điều 202. Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ

1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

a) Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định;

b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định hoặc có sử dụng các chất kích thích mạnh khác mà pháp luật cấm sử dụng;

c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn; 

d) Không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông;

đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

4. Vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ mà có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.

5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.”

Bộ luật dân sự quy định:

“Điều 609. Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm

1. Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm bao gồm:

a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;

b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;

c) Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại.

2. Người xâm phạm sức khoẻ của người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá ba mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định.”

Chồng Em đi lái xe công đến Ngã 3 về thì bị 2 người đi xe máy sang đường không quan sát đã va chạm với xe chồng em. Hậu quả: 1 người gẫy chân, 1 người bị thương ỏ đầu do không đội mũ bảo hiểm. Chồng em đi trên đường ưu tiên còn 2 người kia đi từ đường không ưu tiên. Chồng em đã dừng xe cho 2 người đi viện và báo công an xuống hiện trường. Nhưng hiện nay 2 gia đình kia yêu cầu bồi thường 50.000.000/1 người vi có người nhà làm công an tại Huyện PH-CB – nơi xảy ra tai nạn. Hiện nay 2 nguoi đã được điều trị và nhà em mới tạm đưa 2.000.000/1 người và thăm hỏi . Bây giờ em muốn hỏi Nhà em cần làm gì để giải quyết theo đúng luật ạ

=> Lúc này để tránh tình trạng giải quyết không minh bạch, bạn nên yêu cầu cơ quan công an giao thông cung cấp biên bản điều tra tai nạn. Dựa vào biên bản điều tra bạn có thể xác định được bố bạn có vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ hay không. Nếu bố bạn không vi phạm thì bố bạn không có nghãi vụ bồi thường thiệt hại.

Khi đó, bạn có thể thỏa thuận lại với hai người kia để họ hợp tác. Nếu hai người đó vẫn tiến hành đe dọa bố bạn để đòi tiền và yêu cầu cơ quan công an lập biên bản không đúng sự thực về tai nạn thì bạn có quyền khiếu nại cơ quan công an, đồng thời khởi kiện 2 người đó về hành vi vu khống.

Bố tôi đi xe máy bị một người trở ba không đội mũ bảo hiểm và bị csgt truy đuổi đâm vào.bố tôi bị trấn thương sọ não và dập phổi ở trong tình trạng rất nguy kịch.người điều khiển xe máy đâm vào bố tôi hiện đang 17 tuổi .vậy xin luật sư cho biết về việc bồi thường và chịu trách nhiệm của người điều khiển gây tai nạn cho bố tôi,trong khi tham ra giáo thông bố tôi thực hiện đầy đủ quý định về an toàn giao thông. Xin luật sư cho biết gia đình tôi có được đòi bồi thường tiền viện phí và những tổn hại về vật chất do bên gây tai nạn gây ra hay không

=> Trường hợp này thì bố bạn được bồi thường theo Điều 609 Bộ luật dân sự cũng tôi đã cung cấp bên trên. Cụ thể được quy định tại Khoản 1 Mục 2 Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP:

“1.1. Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại bao gồm: Tiền thuê phương tiện đưa người bị thiệt hại đi cấp cứu tại cơ sở y tế; tiền thuốc và tiền mua các thiết bị y tế, chi phí chiếu, chụp X-quang, chụp cắt lớp, siêu âm, xét nghiệm, mổ, truyền máu, vật lý trị liệu… theo chỉ định của bác sỹ; tiền viện phí; tiền mua thuốc bổ, tiếp đạm, tiền bồi dưỡng phục hồi sức khỏe cho người bị thiệt hại theo chỉ định của bác sỹ; các chi phí thực tế, cần thiết khác cho người bị thiệt hại (nếu có) và các chi phí cho việc lắp chân giả, tay giả, mắt giả, mua xe lăn, xe đẩy, nạng chống và khắc phục thẩm mỹ… để hỗ trợ hoặc thay thế một phần chức năng của cơ thể bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại (nếu có). 

1.2. Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại. Nếu trước khi sức khỏe bị xâm phạm người bị thiệt hại có thu nhập thực tế, nhưng do sức khỏe bị xâm phạm họ phải đi điều trị và do đó khoản thu nhập thực tế của họ bị mất hoặc bị giảm sút, thì họ được bồi thường khoản thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút đó. 

a) Thu nhập thực tế của người bị thiệt hại được xác định như sau: 

– Nếu trước khi sức khỏe bị xâm phạm, người bị thiệt hại có thu nhập ổn định từ tiền lương trong biên chế, tiền công từ hợp đồng lao động, thì căn cứ vào mức lương, tiền công của tháng liền kề trước khi người bị xâm phạm sức khỏe nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại. 

– Nếu trước khi sức khỏe bị xâm phạm, người bị thiệt hại có làm việc và hàng tháng có thu nhập thực tế nhưng mức thu nhập của các tháng khác nhau, thì lấy mức thu nhập trung bình của 6 tháng liền kề (nếu chưa đủ 6 tháng thì của tất cả các tháng) trước khi sức khỏe bị xâm phạm nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại. 

– Nếu trước khi sức khỏe bị xâm phạm, người bị thiệt hại có thu nhập thực tế, nhưng không ổn định và không thể xác định được, thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại. 

– Nếu trước khi sức khỏe bị xâm phạm, người bị thiệt hại chưa làm việc và chưa có thu nhập thực tế thì không được bồi thường theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 609 BLDS. 

1.3. Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị. 

a) Chi phí hợp lý cho người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị bao gồm: tiền tàu, xe đi lại, tiền thuê nhà trọ theo giá trung bình ở địa phương nơi thực hiện việc chi phí (nếu có) cho một trong những người chăm sóc cho người bị thiệt hại trong thời gian điều trị do cần thiết hoặc theo yêu cầu của cơ sở y tế. 

b) Thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị được xác định như sau: 

– Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại có thu nhập thực tế ổn định từ tiền lương trong biên chế, tiền công từ hợp đồng lao động thì căn cứ vào mức lương, tiền công của tháng liền kề trước khi người đó phải đi chăm sóc người bị thiệt hại nhân với thời gian chăm sóc để xác định khoản thu nhập thực tế bị mất. 

– Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại có làm việc và hàng tháng có thu nhập ổn định, nhưng có mức thu nhập khác nhau thì lấy mức thu nhập trung bình của 6 tháng liền kề (nếu chưa đủ 6 tháng thì của tất cả các tháng) trước khi người đó phải đi chăm sóc người bị thiệt hại nhân với thời gian chăm sóc để xác định khoản thu nhập thực tế bị mất. 

– Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại không có việc làm hoặc có tháng làm việc, có tháng không và do đó không có thu nhập ổn định thì được hưởng tiền công chăm sóc bằng tiền công trung bình trả cho người chăm sóc người tàn tật tại địa phương nơi người bị thiệt hại cư trú. 

– Nếu trong thời gian chăm sóc người bị thiệt hại, người chăm sóc vẫn được cơ quan, người sử dụng lao động trả lương, trả tiền công lao động theo quy định của pháp luật lao động, bảo hiểm xã hội thì họ không bị mất thu nhập thực tế và do đó không được bồi thường. 

1.4. Trong trường hợp sau khi điều trị, người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc (người bị thiệt hại không còn khả năng lao động do bị liệt cột sống, mù hai mắt, liệt hai chi, bị tâm thần nặng và các trường hợp khác do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định bị suy giảm khả năng lao động vĩnh viễn từ 81% trở lên) thì phải bồi thường chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại. 

a) Chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại bao gồm: chi phí hợp lý hàng tháng cho việc nuôi dưỡng, điều trị người bị thiệt hại và chi phí hợp lý cho người thường xuyên chăm sóc người bị thiệt hại.

b) Chi phí hợp lý cho người thường xuyên chăm sóc người bị thiệt hại được tính bằng mức tiền công trung bình trả cho người chăm sóc người tàn tật tại địa phương nơi người bị thiệt hại cư trú. Về nguyên tắc, chỉ tính bồi thường thiệt hại cho một người chăm sóc người bị thiệt hại do mất khả năng lao động. 

1.5. Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khỏe bị xâm phạm. 

a) Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khỏe bị xâm phạm được bồi thường cho chính người bị thiệt hại. 

b) Trong mọi trường hợp, khi sức khỏe bị xâm phạm, người bị thiệt hại được bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần. Cần căn cứ vào hướng dẫn tại điểm b tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết này để xác định mức độ tổn thất về tinh thần của người bị thiệt hại. Việc xác định mức độ tổn thất về tinh thần cần căn cứ vào sự ảnh hưởng đến nghề nghiệp, thẩm mỹ, giao tiếp xã hội, sinh hoạt gia đình và cá nhân… 

c) Mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại trước hết do các bên thỏa thuận. Nếu không thỏa thuận được, thì mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại phải căn cứ vào mức độ tổn thất về tinh thần, nhưng tối đa không quá 30 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường.”

Trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có ghi. Công ty sẽ không chi trả quyền lợi bảo hiểm trong trường hợp Người được bảo hiểm hoặc bên mua bảo hiểm tử vong do hậu quả trực tiếp hay gián tiếp của: “Do người được bảo hiểm hoặc bên mua bảo hiểm cố ý thực hiện hành vi vi phạm pháp luật của Việt Nam” Vậy trường hợp khi xảy ra tai nạn dẫn đến tử vong nhưng người tử vong không đội mũ bảo hiểm hoặc có nồng độ cồn trong máu vượt quá mức cho phép có được chi trả quyền lợi bảo hiểm không? khi có luật trong các điều khoản hợp đồng bảo hiểm điều khoản nào mập mờ thì quyền lợi sẽ nghiêng về khách hàng

=> Trường hợp khi xảy ra tai nạn dẫn đến tử vong nhưng người tử vong không đội mũ bảo hiểm hoặc có nồng độ cồn trong máu vượt quá mức cho phép tức là người đó đã vi phạm quy định về giao thông đường bộ. Vậy trường hợp này người được bảo hiểm không được chi trả tiền bảo hiểm.

A là học sinh (năm nay đủ 17 tuổi ) có lấy xe máy Wave RS ( trên 50 cm3) của bố để đi và chở đằng sau một bạn cùng lớp . A điều khiển xe gắn máy ngược chiều trên đường một chiều , cả hai không đội mũ bảo hiểm bị cảnh sát giao thông thổi còi xử phạt hành vi vi phạm quy tắc giao thông đường bộ. -Căn cứ vào luật giao thông năm 2008 và theo nghị định số 46/2016 NĐ-CP , cho tôi biết : Chỉ ra hành vi vi phạm quy tắc giao thông đường bộ của A và bạn của A. Trong tình huống trên , A và bạn A bị xử phạt hành chính như thế nào?. theo luật Bố của A có lỗi gì?. ( trong trường hợp này và bị xử phạt theo quy định của pháp luật như thế nào?

=> Nghị định số 46/2016/NĐ-CP quy định:

+ Xử phạt với A:

“Điều 21.

4. Phạt tiền từ 400.000 đồng đến 600.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây:
a) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi điều khiển xe mô tô có dung tích xi lanh từ 50 cm3 trở lên;”

“Điều 6.

4. Phạt tiền từ 300.000 đồng đến 400.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây:

i) Đi vào đường cấm, khu vực cấm; đi ngược chiều của đường một chiều, đi ngược chiều trên đường có biển “Cấm đi ngược chiều”, trừ trường hợp xe ưu tiên đang đi làm nhiệm vụ khẩn cấp theo quy định;”

+ Xử phạt A và bạn A:

“Điều 6.

3. Phạt tiền từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây:

i) Người điều khiển, người ngồi trên xe không đội “mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe máy” hoặc đội “mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe máy” không cài quai đúng quy cách khi tham gia giao thông trên đường bộ;”

+ Xử phạt với bố A:

“Điều 30.

4. Phạt tiền từ 800.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với cá nhân, từ 1.600.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với tổ chức là chủ xe mô tô, xe gắn máy và các loại xe tương tự xe mô tô thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau đây:

đ) Giao xe hoặc để cho người không đủ điều kiện theo quy định tại Khoản 1 Điều 58 của Luật Giao thông đường bộ điều khiển xe tham gia giao thông (bao gồm cả trường hợp người điều khiển phương tiện có Giấy phép lái xe nhưng đã hết hạn sử dụng).”

ngày 9/11, tôi và bạn tôi có đi xe máy và va chạm với 1 xe máy khác đi ngược chiều. bạn tôi điều khiển xe máy vượt chiếc xe bus đang đỗ ở điểm đón khách,khi vượt thì chúng tôi quan sát không có phương tiện phía trước nên đã xi nhan xin vượt. khi đi được đến phần nửa xe bus rồi thì bất ngờ có 1 chiếc xe máy đi ngược chiều lao ra từ phía trên đầu xe bus nên cả 2 xe đã không phanh kịp dẫn đến va chạm với nhau. cả 3 chúng tôi đều không đội mũ bảo hiểm và người kia đang trong tình trạng say xỉn ạ. tôi và bạn tôi may mắn k sao nhưng còn ng kia thì bị tụ máu não,hiện đang điều trị ở bệnh viện VĐ. tình hình bạn ý rất xấu, có khả năng không qua khỏi. Luật sư có thể cho tôi hỏi liệu tôi và bạn tôi có phải chịu trách nhiệm gì không ạ và chúng tôi có mắc lỗi gì không ạ. Và nếu người kia k may tử vong thì tôi và bạn tôi có bị đi tù không ạ?

=> Trường hợp này cả hai bên đều vi phạm quy định an toàn giao thông đường bộ dẫn đến xảy ra tai nạn thì cả 2 bên đều phải chịu trách nhiệm. Trường hợp người kia không may tử vong thì bạn bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

em đang dừng xe bên vỉa hè xe không nổ máy nên em không đội nón bảo hiểm thì có anh công an phường đến rút chìa khoá xe em bà yêu cầu em xuất trình giấy tờ xe em đã đưa giấy dăng kí xe nhưng không có bằng lái nên anh công an phường xử phạt có đúng không?

=> Trường hợp bạn dừng xe, không nổ máy tức là không tham gia điều khiển phương tiện giao thông. Vì vậy, công an xử phạt bạn vì lỗi không mang Giấy phép lái xe thì công an phải có căn cứ chứng minh trước khi dừng xe bạn có điều khiển phương tiên giao thông. Nếu công an chứng kiến việc bạn có điều khiển phương tiên giao thông thì bạn bị xử phạt hoàn toàn đúng quy định pháp luật.

Nghị định 46/2016/NĐ-CP quy định:

“Điều 21. Xử phạt các hành vi vi phạm quy định về điều kiện của người điều khiển xe cơ giới

2. Phạt tiền từ 80.000 đồng đến 120.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây:

c) Người điều khiển xe mô tô và các loại xe tương tự xe mô tô không mang theo Giấy phép lái xe, trừ hành vi vi phạm quy định tại Điểm b Khoản 5, Điểm c Khoản 7 Điều này.”

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo.

Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/ và có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách hàng.

Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài 24/7 gọi số:  hoặc liên hệ văn phòng  để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Xin giấy phép.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn luật giao thông – .

Nếu bạn cần thêm thông tin xin đặt câu hỏi vào ô hỏi đáp bên dưới để chúng tôi có thể hỗ trợ cho bạn nhiều hơn. Xin chân thành cảm ơn.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *