Phân biệt tội giết người và tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người ?

Xin chào bạn đến với chuyên trang tư vấn dịch vụ pháp luật. Sau đây là một số nội dung chỉ mang tính chất tham khảo. các bạn có thể đọc để hiểu thêm nhé.

Tội cố ý gây thương tích và gây thương tích dẫn đến hậu quả chết người cũng như tội giết người có ranh giới phân biệt hết sức mong manh. Một tình tiết, một yếu tố cũng có thể làm chuyển hóa giữa hai tội danh này. Luật sư tư vấn và giải đáp cụ thể:

Mục lục bài viết

1. Phân biệt tội giết người và tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người ?

Thưa luật sư, em có 1 tình huống muốn hỏi luật sư như sau: Vì 1 mâu thuẫn rất nhỏ nên A và B đánh nhau, A dùng hung khí nguy hiểm là 1 dao tự chế dài 50cm, B không có vũ khí gì. Sau khi bị đánh B bỏ chạy nhưng A đuổi theo và chém nhiều nhát vào lưng và cổ B, việc đánh nhau có sự giúp sức của C và D.

Do thương tích quá nặng nên B phải nhập viện điều trị tuy nhiên B không qua khỏi do nhát chém vào gáy và cột sống quá nặng, vậy A có thể bị truy tố về tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người hay tội giết người ạ ?

Em xin cảm ơn !

Phân biệt tội giết người và tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người ?

Trả lời:

Kính chào bạn ! Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi tới thư mục tư vấn của chúng tôi. Chúng tôi xin giải đáp thắc mắc của bạn như sau:

Tội giết người và tội cố ý gây thương tích dẫn đến hậu quả chết người khác nhau ở điểm nào?

Tội giết người được quy định tại khoản 1 Điều 93 Bộ luật Hình sự như sau: Người nào giết người … thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình. Còn tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người quy định tại khoản 3 Điều 104 Bộ luật Hình sự: Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác … dẫn đến chết người … thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm. Vậy trong trường hợp hành vi của một người dẫn đến hậu quả chết người thì làm sao để biết họ phạm tội giết người theo Điều 93 Bộ luật Hình sự hay phạm tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người theo khoản 3 Điều 104 ?

Để phân biệt hai tội này, cần xem xét các dấu hiệu sau:

1. Lỗi của người thực hiện hành vi: Lỗi là thái độ tâm lý bên trong của người phạm đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra.

– Trong trường hợp phạm tội giết người, người thực hiện hành vi có lỗi cố ý đối với hậu quả chết người. Nghĩa là họ nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả chết người có thể xảy ra và mong muốn hậu quả đó xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhưng để mặc hậu quả đó xảy ra. Sự hình thành ý thức của người có hành vi giết người có thể được biểu hiện theo một trong ba dạng sau:

+) Trước khi thực hiện hành vi nguy hiểm đến tính mạng người khác, người phạm tội thấy trước được hậu quả chết người tất yếu xảy ra và mong muốn cho hậu quả đó xảy ra. Biểu hiện ý thức này ra bên ngoài thường được biểu hiện bằng những hành vi như: chuẩn bị hung khí (phương tiện), điều tra theo dõi mọi hoạt động của người định giết, chuẩn bị những điều kiện, thủ đoạn để che giấu tội phạm…

+) Trước khi có hành vi nguy hiểm đến tính mạng người khác, người phạm tội chỉ nhận thức được hậu quả chết người có thể xảy ra chứ không chắc chắn nhất định xảy ra vì người phạm tội chưa tin vào hành vi của mình nhất định sẽ gây ra hậu quả chết người. Bản thân người phạm tội cũng rất mong muốn cho hậu quả xảy ra, nhưng họ lại không tin một cách chắc chắn rằng hậu quả ắt xảy ra.

+) Trước khi thực hiện hành vi nguy hiểm đến tính mạng của người khác, người phạm tội cũng chỉ thấy trước hậu quả chết người có thể xảy ra tuy không mong muốn hậu quả chết người xảy ra, nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra, hậu quả xảy ra người phạm tội cũng chấp nhận.

– Trong trường hợp phạm tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người, người thực hiện hành vi có lỗi vô ý đối với hậu quả chết người xảy ra. Nghĩa là họ thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả chết người, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra, có thể ngăn ngừa được hoặc họ không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả chết người, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó. Đây là trường hợp người phạm tội chỉ cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khoẻ của nạn nhân, nhưng chẳng may nạn nhân bị chết, cái chết của nạn nhân là ngoài ý muốn của người phạm tội. Hậu quả chết người xảy ra là vì những thương tích do hành vi của người phạm tội gây ra.

Mục đích của người phạm tội

Mục đích là dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của người phạm tội, là kết quả mà người phạm tội mong muốn có được khi thực hiện hành vi của mình.

– Trong trường hợp người thực hiện hành vi có mục đích rõ ràng là tước đoạt tính mạng con người thì họ phạm tội giết người.

– Trong trường hợp phạm tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người, người thực hiện hành vi không có mục đích tước đoạt tính mạng của người khác mà chỉ có mục đích làm người khác bị thương, bị tổn hại về sức khỏe.

Trong trường hợp bạn đã nêu thì về mặt hành vi, A vì 1 xích mích nhỏ mà có hành vi gây hấn với B và hai bên có xảy ra đánh nhau, A dùng dao chém B dẫn đến hậu quả B chết. Về mặt nhận thức, A hoàn toàn có thể nhận thức được 2 điểm: Một là chiếc dao tự chế dài 50cm là 1 hung khí nguy hiểm, có tính sát thương cao nhất là trong trường hợp để tấn công 1 người không có vũ khí tự vệ ; Hai là A hoàn toàn có thể ý thức được vùng gáy, cổ, cột sống là những chổ hiểm trên cơ thể người nhưng vẫn cố ý tấn công vào những chỗ đó. Mặt khác, với 1 xích mích nhỏ giữa 2 người thì sau khi dọa được B bỏ chạy A hoàn toàn có thể dừng việc tấn công lại nhưng A vẫn cố ý bảo D chở mình đuổi theo để chém B.

Vậy có thể khẳng định A đã ý thức dược hành vi của mình có thể gây hậu quả chết người nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi này đến cùng do vậy A có thể phạm phải tội giết người theo điều 93 Bộ luật Hình sự hiện hành.

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/ và có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách hàng qua email hoặc qua . Chúng tôi sẳn sàng giải đáp. Trân trọng ./.

>> Tham khảo nội dung liên quan:

2. Đánh người gây thương tích nhẹ có bị khởi tố không?

Thưa luật sư, Cha tôi và ông chú cọc chèo có sứt míc dẫn tới xô sát lm ông chú kia chảy máu ở mũi, bị nhẹ thôi, còn cha tôi bị ông đó đánh sưng tay nhưng k đi khám(cach nay hơn 2 tháng),ông kia ra viện khám và đưa vụ việc ra công an huyện. Huyên gọi cả 2 bên,lần 1 lên lấy lời khai. Lân 2 ra,công an phạt cha tôi 2,5 triệu. Nhưng ông kia đòi kiện cha tôi ra tòa. Vây hỏi luật sư,vân đề của cha tôi sẽ thế nào. Có bị khởi tố không ?

Rất mong luật sư hồi đáp sớm.

Đánh người gây thương tích nhẹ có bị khởi tố không?

Luật sư trả lời:

Trường hợp người bị hạn kiện ra Tòa có hai khả năng có thể xảy ra:

1. Tranh chấp dân sự

Ở đây là kiện đòi bồi thường về việc gây thương tích, theo quy định của Bộ luật dân sự thì việc của người khác thì bố bạn sẽ phải bồi thường như sau:

Điều 590. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm

1. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm:

a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;

b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;

c) Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại;

d) Thiệt hại khác do luật quy định.

2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khỏe của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.

2. Tố giác tội phạm: tội cố ý gây thương tích

Bố bạn sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự khi thỏa mãn tỷ lệ thương tật như quy định dưới đây:

Điều 134. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn gây nguy hại cho từ 02 người trở lên;

b) Dùng a-xít sunfuric (H2SO4) hoặc hóa chất nguy hiểm khác gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác;

c) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

d) Phạm tội 02 lần trở lên;

đ) Phạm tội đối với 02 người trở lên;

e) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

g) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng mình, thầy giáo, cô giáo của mình;

h) Có tổ chức;

i) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

k) Phạm tội trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện bắt buộc;

l) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe do được thuê;

m) Có tính chất côn đồ;

n) Tái phạm nguy hiểm;

o) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn gây nguy hại cho từ 02 người trở lên;

b) Dùng a-xít sunfuric (H2SO4) hoặc hóa chất nguy hiểm khác gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác;

c) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

d) Phạm tội 02 lần trở lên;

đ) Phạm tội đối với 02 người trở lên;

e) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

g) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng mình, thầy giáo, cô giáo của mình;

h) Có tổ chức;

i) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

k) Phạm tội trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện bắt buộc;

l) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe do được thuê;

m) Có tính chất côn đồ;

n) Tái phạm nguy hiểm;

o) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

Theo thông tin bạn cung cấp thì có thể trường hợp này bố bạn sẽ chỉ phải chịu trách nhiệm bồi thường dân sự mà chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự, vì người kia chỉ bị chảy máu mũi và sự việc cũng đã 2 tháng thì tỷ lệ thương tật có thể chưa đến mức truy cứu TNHS.

Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ , gọi số: để được giải đáp. Trân trọng./.

>> Xem ngay nội dung:

3. Đánh người gây thương tích: cố ý nâng mức thương tật ?

Kính gửi luật sư! em có biết được thông tin của Luật sư qua mạng giờ xin nhờ luật sư tư vấn hỗ trợ giúp gia đình em. chị gái em tên Mai 31 tuổi có liên lạc hoặc gặp mặt người tên Cường công việc gì thì gia đình không biết.

Cụ thể là ngày mùng 4 âm lịch vừa rồi, người tên Cường có vào nhà tìm chị Mai nhưng chị Mai không có ở nhà. Cường đi cùng với 2 người thanh niên nữa, em mới nói là chị Mai không có ở nhà, muốn gì thì liên lạc với chị Mai mà nói chuyện còn gia đình thật sự không biết gì hết. Cường mới nói là em nói ngang, ba em nghe vậy mới kêu Cường biến ra khỏi nhà. Lúc đó Cường đứng dậy nói: “Tao đéo ra khòi nhà thì làm gì tao”. Ba em tức quá mới tát Cường 1 cái thì anh ta đánh lại, 2 người thanh niên đi cùng Cường cũng xông vô nhà em. Ba em chạy ra sau nhà lấy cây tầm vong chạy lên đánh vào người Cường, 1 người thanh niên đi cùng Cường nói: “Tao ở tù mới ra 3 tháng có tin tao giết mày không?”. Lúc đó anh ba em chạy từ sau nhà lên cầm 1 cây tầm vong nữa, ba người này mới chạy ra ngay cổng nhà em chọi đá vô nên anh ba em mới cầm cây dí Cường cùng 2 người thanh niên kia bỏ chạy. Ra khỏi cổng nhà được 1 đoạn thì Cường cùng 1 người thanh niên đè anh ba em xuống đánh. Thấy vậy Nhật (là con của cô út em )mới chạy ra giựt lấy cây tầm vong trên tay ba em chạy tới thì 1 người thanh niên kia bỏ chạy. Cường không chạy kịp nên bị anh em và Nhật đánh liên tiếp vào người. Cường có té và đập đầu vào thềm bê tông của nhà hàng xóm.

Em thấy Cường ra nhiều máu quá nên nhờ mọi người xung quanh báo công an. Cường được đưa ra bệnh viện, tối đó công an có mời ba, anh 3 và Nhật lên làm việc lấy lời khai, nhà em nghe trưởng công an ấp điện thoại ra hỏi công an xã (công an xã là người đã đưa cường đi bệnh viện) và xác nhận là 10% thương tật. Nhưng tới ngày 26/6, công an xã báo với nhà em là Cường thương tật 30% hoặc trên 30%. Vậy nhờ luật sư tư vấn giúp em liệu ba va anh trai, Nhật sẽ chịu mức phạt như thế nào và nếu phải bồi thường tiền thuốc cho Cường thì bao nhiêu? Nhà em đã thông báo với công an là sẽ chịu bồi thường tiền thuốc cho Cường nhưng được biết là hiện giờ Cường đã đi thành phố để phẫu thuật sửa mũi và lấy giấy chứng nhận thương tật từ thành phố về. Liệu trong sự việc này có phải bên phía gia đình Cường cố ý để bắt gia đình em phải bồi thường nhiều hơn quy định không ạ?

Mong nhận được sự tư vấn giúp đỡ của luật sư tới gia đình em sớm ạ!

Cám ơn luật sư rất nhiều!

Đánh người gây thương tích: cố ý nâng mức thương tật ?

Trả lời:

Chào bạn, rất hân hạnh được trả lời câu hỏi của bạn.

Thứ nhất, trong hành vi gây thương tích gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì vấn đề quan trọng là phải xác định được chính xác tỷ lệ thương tích để xác định có hay không có trách nhiệm hình sự, nếu có trách nhiệm hình sự thì rơi vào khung hình phạt nào.

Như thông tin của bạn, trước đó xác định được tỷ lệ thương tích của người tên Cường là 10%. Theo khoản 1 Điều 104 sửa đổi bổ sung năm 2009, sửa đổi bổ sung năm 2009 thì người có hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật dưới 11% bị truy cứu trách nhiệm hình sự với khung hình phạt cải tạo không giam giữ đế 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm, khi thuộc một trong các trường hợp sau:

“a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;

b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;

d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

e) Có tổ chức;

g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;

i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;

k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân”.

Nếu không thuộc một trong các trường hợp trên thì người thân của bạn chỉ phải chịu trách nhiệm dân sự về bồi thường thiệt hại về sức khỏe và trách nhiệm hành chính về hành vi gây mất trật tự an ninh công cộng.

Về việc bồi thường thiệt hại về sức khỏe:

Điều 609 quy định về bồi thường thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm:

“1. Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm bao gồm:

a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;

b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;

c) Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại.

2. Người xâm phạm sức khoẻ của người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá ba mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định”.

Như vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của gia đình bạn được xác định gồm 3 nghĩa vụ:

– Một là, chi phí hợp lý cho việc cứu chữa.

– Hai là, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người này.

– Ba là, bù đắp tổn thất về tinh thần.

– Ngoài ra, còn có thể phát sinh chi phí về phía người chăm sóc người bị thiệt hại.

Thứ hai, về việc tỷ lệ thương tật thay đổi từ 10% lên 30%. Như đã nói ở trên, tỷ lệ thương tật của người bị thiệt hại chính là cơ sở để xác định có hay không có trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi gây thương tích. Trường hợp có sự thay đổi lớn về tỷ lệ thương tích như vậy, gia đình bạn hoàn toàn có quyền yêu cầu giám định tỷ lệ thương tật từ phía Hội đồng giám định pháp y để có kết luận chính xác và phù hợp với quy định của pháp luật, không làm thiệt hại đến quyền và lợi ích chính đáng của bản thân. Việc giám định pháp y này có thể thực hiện tại Trung tâm pháp y cấp tỉnh.

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi, rất mong có thể giải đáp được thắc mắc của bạn.

4. Tội và mức bồi thường có dựa trên trên hồ sơ bệnh án không ?

Xin chào luật sư! Tôi có một thắc mắc kính mong luật sư tư vấn giúp. Một người thường xuyên uống rượu và hay gây gỗ đánh người, thậm chí còn đánh cả bố vợ, nhiều lần bị pháp luật chấn chỉnh, và đã đưa ra trước dân để nhắc nhở.

Trong một lần nhậu say đã chửi bới gia đình và họ hàng tôi nên bố tôi có nhắc nhở và bị người này đánh trước 2 cái, do bức xúc vì thấy bố bị đánh nên em trai tôi có nổi nóng và đánh lại gây thương tích cho người này ở gò má phải khâu 5 mũi, bầm 01 con mắt nhưng không nguy hiểm cho mắt và bản thân người này tự té vào cửa nên gây vết thương ngoài da ở phía sau gáy. Sau khi được gia đình đưa đi điều trị tại bệnh viện, gia đình khai báo với bác sĩ là bị tai nạn giao thông nên trong hồ sơ bệnh án là do tai nạn giao thông gây ra không phải do gây gỗ gây mất trật tự hay đánh lộn.Và bác sĩ chẩn đoán bị chấn thương sọ não nhưng sau 1 tuần điều trị thì cho xuất viện và không bị sao. Sau đó công an có mời em trai tôi lên làm việc, em trai tôi thành thật khai báo và có nhận lỗi là có đánh người, và hứa sẽ chịu lo chi phí điều trị cho người này.

Tôi có một vài câu hỏi như sau:

– Khi người này kiện em trai tôi vì tội đánh người gây thương tích và đòi bồi thường nhưng hồ sơ bệnh án ghi do bị tai nạn xe thì sẽ xử lý ra sao?

– Nếu bị xử lý thì em trai tôi phải chịu trách nhiệm hình sự như thế nào?

Luật sư tư vấn:

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 2 Luật Bảo hiểm xã hội 2006 quy định:

1. Trách nhiệm đối với trường hợp khai sai về hồ sơ bệnh án

Việc gia đình bạn khai báo với bác sĩ là bị tai nạn giaot hông nên hồ sơ bệnh án ghi là “tai nạn giao thông”. Đây là hành vi khai báo gian lận của gia đình quý khách khi đưa người bị hại vào bệnh viện, chính vì vậy bác sĩ không thể xác nhận được việc thương tích của người bị hại là do em trai quý khách gây ra. Nếu như người nhà, người thân thích hoặc hàng xóm làm chứng cho vụ gây gổ, đánh nhau giữa người bị hại và em trai quý khách thì em trai quý khách vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự. (Người bị hại phải chứng minh được hồ sơ bệnh án là sai sự thật, phải có người làm chứng cho vụ việc ngày hôm đó).

Trường hợp này, người bị hại vẫn có thể yêu cầu được đi giám định lại tỷ lệ thương tật để xác định trách nhiệm của phía em trai quý khách và yêu cầu bồi thường thiệt hại.

2. Về trách nhiệm hình sự phải chịu

Việc em trai quý khách đánh người gây thương tích cho đối tượng kia phải khâu 5 mũi, bầm 1 mắt và bị thương sau gáy, gia đình quý khách đã đưa đi bệnh viện và bác sĩ chẩn đoán người này bị chấn thương sọ não (việc người này bị chấn thương sọ não nguyên nhân sâu xa từ việc tấn công của em trai quý khách, chứ không thể nói người này tự ngã được). Như vậy, em trai quý khách đã đủ dấu hiệu cấu thành về tội cố ý gây thương tích theo Điều 104 ( ), cụ thể:

“Điều 104. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác

1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:

a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;

b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;

d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

e) Có tổ chức;

g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;

i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;

k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.

4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân.”

Do quý khách không nói rõ về phần thương tích của người bị hại là bao nhiêu %, nên chúng tôi không thể xác định rõ mức thương tật này để áp dụng vào khoản nào của Điều 104. Quý khách có thể đối chiếu lại quy định tại Điều 104 để xme xét cụ thể vào trường hợp của mình.

Quý khách cần lưu ý, nếu trường hợp của quý khách thuộc vào khoản 1 Điều 104 BLHS thì phía công an chỉ được khởi tố hình sự nếu như có yêu cầu của người bị hại. Căn cứ vào Điều 105 quy định: “Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các Điều 104, 105, 106, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của Bộ luật hình sự (BLHS) chỉ được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần thể chất.”.

Chính vì vậy, nếu em trai quý khách thuộc vào khoản 1 Điều này thì gia đình nên thỏa thuận với người bị hại về việc bồi thường (vật chất và tinh thần) để họ không khởi kiện em trai quý khách ra trước pháp luật. Nếu em trai quý khách thuộc vào khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều 104 thì em trai quý khách phải chịu trách nhiệm hình sự. Trân trọng!

5. Tư vấn về việc đánh người gây thương tích ?

Thưa Luật sư. Nhà em bán hàng tạp hóa có mình mẹ em ngủ dưới quán khoảng 22h 30 có người gọi cửa mẹ em dậy mở cửa thì 3 người hàng xóm đã ập vào đánh mẹ em gây thương tích (chảy máu mắt vì rách giác mạc và dập lá lách 2 gây chảy máu và tụ máu) sau hai tuần điều trị tại bệnh viện xanh pôn hiện nay kiểm tra laị mẹ em vẫn bị tổn thương lá lách.

Người gây thương tích cho mẹ em như vậy thì phải chịu trách nhiệm như thế nào và phải bồi những gì?

Mong Luật sư tư vấn. Em xin chân thành cảm ơn!

>> :

Trả lời

Thứ nhất, về hành vi đánh người.

Điều 104, quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác

1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:

A) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;

B) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

C) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;

D) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

Đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

E) Có tổ chức;

G) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

H) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;

I) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;

K) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.

4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân.

Như vậy căn cứ vào tỷ lệ thương tích đã gây ra cho người bị hại thuộc vào trường hợp nào thí sẽ quyết định hình phạt thuộc vào khung hình phạt đó.

Thứ hai, về bồi thường thiệt hại.

Theo điều 609 :

“1. Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm bao gồm:

a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;

b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;

c) Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại.

2. Người xâm phạm sức khoẻ của người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá ba mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định.”

Như vậy người đã xâm hại sức khỏe của mẹ bạn phải bồi thường những khoản trên theo đúng quy định của pháp luật.

Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài 24/7 gọi số: hoặc gửi qua email: để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Xin giấy phép. Rất mong nhận được sự hợp tác!

6. Đánh người gây thương tích bị xử phạt thế nào ?

Cháu hỏi luật sư mong luật sư trả lời giúp : – Cháu có nợ 1 a 1 khoản tiền từ năm 2011 nhưng đến nay chưa trả. Trong giấy có hẹn là sau 1 tháng trả. Nhưng từ đợt đấy không thấy a ý nói gì hay đòi gì, Đến nay a ý không hỏi đòi cũng không nói gì đột nhiên ra đánh cháu bằng chân tay không gây sưng mặt phù nề và ảnh hưởng đến đầu óc. cháu đã đi viện điều trị và đã khỏi. Nhưng trước đó cháu đã gửi đơn tố cáo lên công an. Luật sư cho cháu hỏi nếu cháu tố cáo thì người gây thương tích cho cháu bị kết án ntn?

Trả lời:

Luật Hình sự quy định truy tố trách nhiệm hình sự đối với hành vi gây tổn hại thương tật cho người khác từ 10 % trở lên. Xin giấy phép tư vấn và giải đáp các quy định của pháp luật xung quanh nội dung trên:

Việc bạn vay tiền nhưng chưa trả không có nghĩa là người ta được quyền đánh bạn, gây thương tích cho bạn do đó trong trường hợp này nếu họ đã gây thương tích cho bạn thì đây là hành vi trái quy định pháp luật và người đó có thể phải chịu trách nhiệm hành chính hay trách nhiệm hình sự tương ứng. Cụ thể:

Điều 104 () quy định như sau:

“Điều 104. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác

1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:

a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;

b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;

d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

e) Có tổ chức;

g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;

i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;

k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.

4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân.”

Khoản 2 Điều 5 về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự; an toàn xã hội; phòng chống tệ nạn xã hội; phòng cháy chữa cháy; phòng chống bạo lực gia đình quy định như sau:

“2. Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

a) Đánh nhau hoặc xúi giục người khác đánh nhau;

b) Báo thông tin giả đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền;

c) Say rượu, bia gây mất trật tự công cộng;

d) Ném gạch, đất, đá, cát hoặc bất cứ vật gì khác vào nhà, vào phương tiện giao thông, vào người, đồ vật, tài sản của người khác;

đ) Tụ tập nhiều người ở nơi công cộng gây mất trật tự công cộng;

e) Để động vật nuôi gây thiệt hại tài sản cho người khác;

g) Thả diều, bóng bay, chơi máy bay, đĩa bay có điều khiển từ xa hoặc các vật bay khác ở khu vực sân bay, khu vực cấm; đốt và thả “đèn trời”;

h) Sách nhiễu, gây phiền hà cho người khác khi bốc vác, chuyên chở, giữ hành lý ở các bến tàu, bến xe, sân bay, bến cảng, ga đường sắt và nơi công cộng khác…”

Thưa luật sư, Cho em hỏi .Là em của em đi chơi bị người ta cố ý gây thương tích .Thì mức bồi thường là như thế nào ạ ? Cảm ơn!

Điều 609 Bộ luật Dân sự quy định:

“Điều 609. Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm

1. Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm bao gồm:

a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;

b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;

c) Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại.

2. Người xâm phạm sức khoẻ của người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá ba mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định.”

Như vậy, theo quy định thì mức bồi thường không được quy định cụ thể mà cần phải căn cứ vào những chi phí hợp lý như: chi phí cứu chữa, chi phí phục hồi sức khỏe,… mới có thể xác định được chính xác.

Chào Xin giấy phép. Em muốn hỏi về mức án xử phạt của người vợ : người vợ đốt chồng đang nhậu say, phỏng 80% cơ thể ( còn đôi bàn chân ).

Việc xác định người vợ phải chịu trách như thế nào còn phải phụ thuộc vào những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nguyên nhân, mục đích của người vợ khi thực hiện hành vi đốt chồng, tỷ lệ thương tật mới xác định rõ được. Do đó, trong trường hợp này chúng tôi không thể xác định chính xác mức phạt cho người vợ này.

Em xin hỏi luật sư: Cô em khởi kiện 1 người về tội cố ý gây thương tích , nhưng trong đơn khởi kiện không có yêu cầu bồi thường thiệt hại . Tại bản án sơ thẩm , tòa án không đưa vấn đề bồi thường thiệt hại vào . Không đồng ý với điều này , cô em kháng cáo lên TAND tỉnh yêu cầu được bồi thường nhưng có 1 bạn học luật tư vấn cho cô em rằng yêu cầu này sẽ không được giải quyết vì tòa án cấp phúc thẩm chỉ xét lại những gì có trong bản án sơ thẩm thôi. Vậy cô em có được yêu cầu xét xử phúc thẩm không ? Em xin cảm ơn Luật sư !

Điều 230 Bộ luật tố tụng hình sự quy định như sau:

“Điều 230. Tính chất của xét xử phúc thẩm

Xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị.”

Điều 241 quy định như sau:

“Điều 241. Phạm vi xét xử phúc thẩm

Tòa án cấp phúc thẩm xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị. Nếu xét thấy cần thiết thì Tòa án cấp phúc thẩm có thể xem xét các phần khác không bị kháng cáo, kháng nghị của bản án.”

Như vậy, theo quy định của pháp luật thì xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án. Có nghĩa là nếu như đương sự, viện kiểm sát,.. không đồng ý với quyết định của Tòa án thì thực hiện thủ tục kháng cáo hoặc kháng nghị. Việc kháng cáo hay kháng nghị cũng chỉ là yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm.

Trong trường hợp này, nếu bạn muốn yêu cầu bồi thường, bạn phải làm đơn yêu cầu bồi thường gửi lên cơ quan Tòa án để Tòa án giải quyết.

Kính chào Xin giấy phép Em có 1 vấn đề cần tư vấn như sau: bạn em là A có mâu thuẫn với 1 người. A gọi B cùng đi nói chuyện. Đến nơi A vào gặp thì người đó ra tay đánh A trước (không có hung khí) A dùng dao đánh trả làm người đó bị thương. B đứng ngoài không làm gì nhưng B lại cầm hung khí (vũ khí thô sơ). Bên nhóm người kia khoảng 8-10 người (có cầm hung khí) và cũng không có hành động gì. Sau đó A và B ra về. Sau nghe nói người đó bị thương 20% (mất nửa đốt ngón tay cái) và đang khởi kiện. Nhờ luật sư tư vấn giúp em 2 người bạn em có thể bị kết tội gì và mức xử phạt ra sao. A có 1 án treo về hành vi cố ý gây thương tích. B chưa từng vi phạm luật hình sự và đang có con nhỏ (3 tháng tuổi) Em rất mong nhận được sự tư vấn của luật sư.

Trong trường hợp này, hai người bạn của bạn có thể sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Điều 104 Bộ luật Hình sự theo như phân tích ở trên. Về vấn đề mức xử phạt như thế nào chúng tôi không thể xác định cụ thể cho bạn được, trong trường hợp này còn phải căn cứ vào những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng,… mà cơ quan có thẩm quyền xác nhận, điều tra được.

Chào luật sư, cho em hỏi một vấn đề là Buổi chiều em của em chơi đá bóng thì không may xảy ra cải vả với thằng anh nên 2 anh em xung vào đánh em của em, trong lúc tức giận thì em của em đã dùng dao gây thương tích ở má và ở vai, bác sĩ chưa giám định là bao nhiêu % nhưng họ kết luận là chỉ bị ngoài da, siêu âm và chụp citi không ảnh hưởng đến xương hàm và cơ quan nội tạng. trong tình tiết giảm nhẹ tại điều 46 thì em của em có trên 2 tình tiết được giảm nhẹ Vậy em mong nhận được sự tư vấn của luật sư Em cảm ơn !

Trong trường hợp này, bạn không nêu rõ tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại Điều 46 Bộ luật Hình sự của bạn là gì do đó chúng tôi không thể trao đổi chính xác với bạn được. Tuy nhiên, chúng tôi cũng sẽ trao đổi với bạn như sau:

Điều 47 Bộ luật Hình sự quy định:

“Điều 47. Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật

Khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật này, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật; trong trường hợp điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất của điều luật, thì Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.”

Do đó, nếu như bạn có ít nhất 2 tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật Hình sự thì bạn sẽ được cơ quan Tòa án quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật.

Mẹ e dc bao lanh định cư sang Hoa Ky nhưng trong hồ sơ la em dc di theo me sang Hoa Ky luon . Nhưng năm 2007 e bi TAND Q1 tuyen an 18 thang tù ve toi cố ý gây thương tích và hiện tại e đã đc xoá an . Như vay e co dc theo me sang dinh cu ben Hoa Ky ko ha Xin luat su tu van giup em

Điều 21 Văn bản hợp nhất số 07/VBHN-BCA về xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam quy định như sau:

“Điều 21. Công dân Việt Nam ở trong nước chưa được xuất cảnh nếu thuộc một trong những trường hợp sau đây:

1. Đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc có liên quan đến công tác điều tra tội phạm.

2. Đang có nghĩa vụ chấp hành bản án hình sự.

3. Đang có nghĩa vụ chấp hành bản án dân sự, kinh tế; đang chờ để giải quyết tranh chấp về dân sự, kinh tế.

4. Đang có nghĩa vụ chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, nghĩa vụ nộp thuế và những nghĩa vụ khác về tài chính trừ trường hợp có đặt tiền, đặt tài sản hoặc có biện pháp bảo đảm khác để thực hiện nghĩa vụ đó.

5. Vì lý do ngăn chặn dịch bệnh nguy hiểm lây lan.

6. Vì lý do bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.

7. Có hành vi vi phạm hành chính về xuất nhập cảnh theo quy định của Chính phủ.”

Theo dữ liệu bạn đưa ra thì hiện tại bạn đã được xóa án tích, do đó hiện tại bây giờ bạn không thuộc các trường hợp quy định trên thì bạn sẽ được xuất cảnh.

Về vấn đề bạn có được nhập cảnh theo mẹ sang Hoa Kỳ hay không còn phải phụ thuộc vào pháp luật bên nước Hoa Kỳ. Về vấn đề này, chúng tôi không thể hỗ trợ được cho bạn do đó, để biết bạn có thể nhập cảnh vào Hoa Kỳ hay không bạn nên liên hệ với cơ quan Đại sứ quán hoặc Lãnh sự quán của Hoa Kỳ tại Việt Nam để được biết thêm thông tin.

Chào Xin giấy phép, Anh của mình có án treo 1 năm vì tội đánh nhau gây thương tích. Hiện nay án đã hết hạn khá lâu (khoảng 2 năm) nhưng chưa đi làm các thủ tục xóa án. Anh mình đã đi làm thủ tục xin passport (hộ chiếu) và đã được cấp passport. Gia đình mình muốn đi du lịch Singapore. Vậy xin hỏi anh mình có thể xuất cảnh đi du lịch không? Xin Xin giấy phép giúp mình giải đáp thắc mắc. Xin cảm ơn. Lan.

Điều 63 Bộ luật Hình sự quy định như sau:

“Điều 63. Xoá án tích

Người bị kết án được xoá án tích theo quy định tại các điều từ Điều 64 đến Điều 67 của Bộ luật này.

Người được xoá án tích coi như chưa bị kết án và được Toà án cấp giấy chứng nhận.”

Điều 270 Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định như sau:

“Điều 270. Đương nhiên xóa án tích

Theo yêu cầu của người được đương nhiên xóa án tích quy định tại Điều 64 của Bộ luật hình sự, Chánh án Tòa án đã xử sơ thẩm vụ án cấp giấy chứng nhận là họ đã được xóa án tích.”

Như vậy, theo quy định pháp luật trên thì nếu như anh bạn chưa làm thì anh bạn vẫn được coi là có án. Nhưng anh bạn đã chấp hành xong hình phạt do đó đối chiếu theo Điều 21 Văn bản hợp nhất số 07/VBHN-BCA về xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam thì trong trường hợp này anh bạn vẫn được xuất cảnh.

Ngày 23/3/2016, anh tôi đi làm có va quẹt xe máy với 1 người, sau khi tranh cãi thì anh tôi có đánh người đó gây thương tích, anh tôi bị bắt ngay lúc đó nên giờ k biết chính xác nội dung câu chuyện như thế nào. Hiện tại công an đang tạm giam 3 tháng, bên người bị đánh thì đã nhận tiền bãi nại rồi nhưng chỉ viết giấy tay k chịu ra phường công chứng. Vậy cho tôi hỏi trường hợp như vậy có được bão lãnh k, mức bão lãnh ntn, và giấy bãi nại chỉ ghi tay k thôi thì có giá trị pháp lý k, mức án thì có thể nhận án treo k. Nếu gia đình muốn nhờ luật sư can thiệp thì mức phí là bao nhiêu?

Điều 92 Bộ luật Tố Tụng Hình sự quy định như sau:

“Điều 92. Bảo lĩnh

1. Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh.

2. Cá nhân có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người thân thích của họ. Trong trường hợp này thì ít nhất phải có hai người. Tổ chức có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức của mình. Khi nhận bảo lĩnh, cá nhân hoặc tổ chức phải làm giấy cam đoan không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án. Khi làm giấy cam đoan, cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh được thông báo về những tình tiết của vụ án có liên quan đến việc nhận bảo lĩnh.

3. Những người quy định tại khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này, Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà có quyền ra quyết định về việc bảo lĩnh.

4. Cá nhân nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo phải là người có tư cách, phẩm chất tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Việc bảo lĩnh phải có xác nhận của chính quyền địa phương nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc. Đối với tổ chức nhận bảo lĩnh thì việc bảo lĩnh phải có xác nhận của người đứng đầu tổ chức.

5. Cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan phải chịu trách nhiệm về nghĩa vụ đã cam đoan và trong trường hợp này bị can, bị cáo được nhận bảo lĩnh sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.”

Như vậy, trong trường hợp này, bạn vẫn được bảo lĩnh cho anh bạn nhưng việc bảo lĩnh có được hay không còn phải căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân của anh bạn thì cơ quan có thẩm quyền mới ra quyết định cho phép bạn bảo lĩnh.

Theo quy định của luật thì không có quy định về giây bãi nại được viết tay phải có công chứng, do đó trong trường hợp này giấy bãi nại việt tay vẫn có giá trị pháp lý.

Điều 60 Bộ luật Hình sự quy định như sau:

“Điều 60. Án treo

1. Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm.

2. Trong thời gian thử thách, Toà án giao người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó thường trú để giám sát và giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó.

3. Người được hưởng án treo có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định theo quy định tại Điều 30 và Điều 36 của Bộ luật này.

4. Người được hưởng án treo đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giám sát và giáo dục, Toà án có thể quyết định rút ngắn thời gian thử thách.

5. Đối với người được hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử thách, thì Toà án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 51 của Bộ luật này.”

Theo quy định của luật thì việc hưởng án treo phải căn cứ vào:

– Quyết định của Tòa án: Khi xử phạt tù không quá ba năm

– Nhận thân của người phạm tội (anh bạn)

– Các tình tiết giảm nhẹ

– Và nếu thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm.

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài 24/7 gọi số: hoặc liên hệ văn phòng để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Xin giấy phép.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn luật Hình sự – Công ty luật Minh KHuê

Nếu bạn cần thêm thông tin xin đặt câu hỏi vào ô hỏi đáp bên dưới để chúng tôi có thể hỗ trợ cho bạn nhiều hơn. Xin chân thành cảm ơn.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *