Tư vấn quy định pháp luật về hành vi đánh người gây thương tích ?

Xin chào bạn đến với chuyên trang tư vấn dịch vụ pháp luật. Sau đây là một số nội dung chỉ mang tính chất tham khảo. các bạn có thể đọc để hiểu thêm nhé.

Hành vi gây thương tích cho người khác bằng mọi thủ đoạn hoặc hành vi nào khác đều là hành vi vi phạm pháp luật. Người gây thương tích nhẹ thì có thể chỉ bị xử phạt hành chính, gây thương tích nặng phải chịu trách nhiệm hình sự và bồi thường những tổn thất do mình gây ra:

Mục lục bài viết

1. Tư vấn quy định pháp luật về hành vi ?

Kính chào Xin giấy phép, Tôi có một vấn đề mong các luật sư giải đáp: Em trai tôi mới mãn hạn tù được 01 năm về nhà đang làm ăn đàng hoàng thì có xích mích với người hàng xóm nên đã gây thương tích cho người ta rồi bỏ trốn. Gia đình tôi cũng tận tâm chăm sóc đưa đi chụp khám và bồi thường cho người bị hại. Phía công an đã đưa người bị hại đi giám định sức khỏe. Vậy tôi muốn hỏi là: Nếu như bên bị hại không đưa đơn kiện, mà bên công an chỉ căn cứ vào lời khai của bị hại thì em trai tôi có bị kết án không?

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Người gửi: Đ.Đ.L

Trả lời:

Theo như thông tin mà bạn cung cấp thì em trai bạn có xích mích với người hàng xóm nên đã gây thương tích cho người ta rồi bỏ trốn. Vì bạn không nói rõ tỉ lệ thương tật sau khi người đó giám định là bao nhiêu phần trăm? Đã đủ yếu tố để bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo Điều 134 , .

“Điều 134. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;

b) Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm;

c) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình;

đ) Có tổ chức;

e) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

g) Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;

h) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê;

i) Có tính chất côn đồ;

k) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm:

a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30%;

c) Phạm tội 02 lần trở lên;

d) Tái phạm nguy hiểm;

đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 4 Điều này;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;

c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này;

d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 14 năm:

a) Làm chết người;

b) Gây thương tích làm biến dạng vùng mặt của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;

d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này;

đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.

5. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

a) Làm chết 02 người trở lên;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.

6. Người nào chuẩn bị vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm, a-xít nguy hiểm, hóa chất nguy hiểm hoặc thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm nhằm gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.”

Nếu thuộc trường hợp theo khoản 1 Điều 134 thì em bạn sẽ chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi có đơn yêu cầu khởi tố của người bị hại. Nếu bị hại không có đơn yêu cầu thì cơ quan điều tra không được truy cứu trách nhiệm hình sự với em bạn. Căn cứ Điều 155 có quy định những trường hợp chỉ khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại như sau:

“Điều 155. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại

1. Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.

2. Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.

3. Bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.”

Nếu tỉ lệ thương tật không thuộc khoản 1 mà thuộc khoản 2,3,4 của Điều 134 thì không phụ thuộc vào yêu cầu của người bị hại mà cơ quan công an có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hình sự em bạn về hành vi cố ý gây thương tích theo Điều 134 khi có dấu hiệu tội phạm.

>> Tham khảo nội dung liên quan:

2. Gây thương tích 17% bị truy cứu trách nhiệm hình sự như thế nào ?

Thưa Công ty Xin giấy phép, tôi có câu hỏi muốn được giải đáp: Chồng tôi có đánh một người gây thương tích 17% do người này đã vu khống ba chồng tôi ăn cắp điện trong rẩy, và thường xuyên chửi rủa ba mẹ chồng tôi, đồng thời cắt điện không cho gia đình chồng tôi xài (đồng hồ bắt chung) do chồng tôi làm ăn xa nghe tin vậy xót ruột đã xảy ra ẩu đả.

Khi đánh có 2 người vết thương chồng tôi đánh (dùng gạch) 2% còn người kia đánh là 15%, gia đình tôi đã đến xin lỗi và bồi thường nhưng họ đòi 150 triệu con số quá lớn và ko chịu ,vậy trong trường hợp chồng tôi bị ra toà xét xử thì mức án thế nào và có xin hưởng án treo đươc ko?

Tôi xin chân thành cám ơn!

Gây thương tích 17% bị truy cứu trách nhiệm hình sự như thế nào ?

:

Trả lời:

Căn cứ theo khoản 1 Điều 134 , quy định về hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như sau:

“Điều 134. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;

b) Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm;

c) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình;

đ) Có tổ chức;

e) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

g) Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;

h) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê;

i) Có tính chất côn đồ;

k) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.”

Như vậy, chồng bạn gây thương tích cho 2 người đều thuộc trường hợp trên cho nên nếu bị kiện ra Tòa, chồng bạn bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm tùy từng trường hợp. Ngoài ra, chồng bạn còn phải bồi thường thiệt hại cho hai người đó do sức khỏe bị xâm phạm cụ thể là: cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại; thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại trong trường hợp sau khi điều trị, người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc; khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khoẻ bị xâm phạm.

3. Bồi thường thiệt hại khi gây thương tích, ?

Thưa luật sư, tôi có câu hỏi cần tư vấn như sau: Chồng tôi thừa nhận có tình cảm với người con gái khác, một hôm tức giận tôi đã tìm đánh cô ấy, cụ thể: đã đánh vài bạt tay vào mặt và đánh bầm tím 1 mắt và nói “mày dám ở với chồng tao, tao đánh cho mày chừa”.

Cô ta làm đơn thưa tôi ra UBND xã, đòi tôi bồi thường thiệt hại, thưa tôi xúc phạm danh dự. Tôi biết hành động của tôi sai, đồng ý bị xử phạt, theo luật sư tôi sẽ bị phạt như thế nào theo quy định hiện hành của pháp luật? Trân trọng cảm ơn.

Người gửi: G.L

Bồi thường thiệt hại khi gây thương tích, xúc phạm danh dự ?

Trả lời:

Hành vi đánh ghen của chị đã gây ra thương tích cho người kia, hành vi này có thể cấu thành tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo Điều 134 ,

Nếu như người bị hại giám định tỷ lệ thương tật từ 11% trở lên hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các điểm quy định tại khoản 1 điều 134 thì chị có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, nếu bị truy cứu TNHS chị có thể được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm e khoản 1 điều 54 , đó là: “e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của người bị hại hoặc người khác gây ra;” (hành vi ngoại tình cũng vi phạm pháp luật về nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng).

Ngoài ra, nếu như không đủ yếu tố để cấu thành tội cố ý gây thương tích nêu trên thì hành vi của chị có thể bị xử phạt vi phạm hành chính theo Điểm e, khoản 3 Điều 5 : Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây: …e) Xâm hại hoặc thuê người khác xâm hại đến sức khỏe của người khác…

>> Tham khảo nội dung liên quan:

4. Gây thương tích đối với tên cướp có bị xử lý hình sự ?

Kính chào Xin giấy phép, Tôi có một vấn đề mong các luật sư giải đáp: Bạn tôi có cố tình gây thương tích tai nhà riêng vì có 1 tên cướp đến nhà ăn trộm đồ và cầm dao đe dọa 6 người thân của bạn tôi. Vậy theo luật thì bạn tôi có phải vào tù không hay bị pháp luật trừng phạt như thế nào ạ ?

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Người gửi: N.Q

Trả lời:

Điều 22 , quy định:

“Điều 22. Phòng vệ chính đáng

1. Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.

Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.

2. Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.

Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này.”

Theo thông tin bạn cung cấp thì người bạn của bạn gây thương tích khi tên trộm cầm dao đe dọa 6 người thân của bạn đó. Chúng tôi chia các trường hợp như sau:

– Một là, nếu hành vi của tên trộm khi đó là tấn công bạn hoặc người thân của gia đình bạn với hung khí nguy hiểm là con dao, bất chấp tính mạng của người khác để nhằm mục đích chạy trốn, vì vậy bạn của bạn không còn cách nào khác phải tấn công lại nhằm phòng vệ và ngăn chặn hành vi nguy hiểm của tên trộm, và đã dẫn đến hậu quả là tên trộm bị thương tích. Như vậy, hành vi của người bạn này lúc ấy được coi là cần thiết, cấp thiết buộc phải phản ứng, phải chống trả lại một cách tương xứng để ngăn ngừa hậu quả xấu có thể xảy ra với mình hoặc người thân thì hành vi này được coi là phòng vệ chính đáng và sẽ không phạm tội (Theo quy định tại khoản 1, Điều 22 Bộ luật Hình sự). Do đó, bạn của bạn không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình.

– Hai là, nếu tên trộm cầm dao nhưng không có biểu hiện của việc dùng con dao này để gây thương tích, làm nguy hại đến bạn và gia đình (như giơ dao lên đòi đâm, chém…) mà chỉ dùng chân, tay để thực hiện hành vi vũ lực, làm náo loạn, nhưng bạn của ban đã có hành vi gây thương tích cho tên trộm mà tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên hoặc dẫn đến chết người, thì người bạn này có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng” vì hành vi phản ứng của bạn rõ ràng là quá mức cần thiết, không tương xứng với hành vi của tên trộm theo quy định tại Khoản 2 Điều 22 và Điều 136 ,

“Điều 136. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội

1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, thì bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:

a) Đối với 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.

3. Phạm tội dẫn đến chết người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm.”

Khung hình phạt đối với tội phạm này là phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm. Mức hình phạt cụ thể còn tùy thuộc tỷ lệ thương tật của nạn nhân và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trong vụ án.

5. Xử lý thế nào trong trường hợp trong trạng thái tinh thần bị kích động ?

Chào luật sư, Cháu có một vụ án mong luật su giúp cháu giải quyết. Sau khi đi làm về D gửi cây cuốc cho C. Hôm sau D đến nhà C lấy lại cây cuốc thì bà N mẹ của C cho rằng D còn nợ 15.000 ngàn đồng chưa chả nên bà lấy cây cuốc trừ nợ. D về nói lại với cha ruột là ông B, do tức giận nên ông B và D sang nhà bà N để nói chuyện.

Trong lúc lời qua tiếng lại thì ông B nhặt lấy cây củi trước nhà bà N xông vào đánh C. Thấy vậy D cũng nhặt lấy câu củi chạy theo ông B. Liền lúc đó bà N nhặt cây củi khác đánh vào đầu làm D té ngã xuống đất. Ông B quay lại đánh nhau với bà N thì bị bà N đánh gãy tay phải, thì được mọi người xung quanh ngăn cả. Hậu quả ông B bị thương với tỷ lệ 15% còn D thì bị trấn thương sọ não với tỷ lệ là 31%. Vậy luật sư cho cháu hỏi trong trường hợp này thì bà N có bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay không? Và vụ án sẽ được giải quyết như thế nào ?

Cháu mong nhận được câu trả lời sớm từ luật sư. Cháu trân thành cảm ơn!

Trả lời:

Theo như thông tin bạn cung cấp thì vụ việc trên có dấu hiệu của tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy định tại Điều 134 ,

“Điều 134. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm:

a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;”

Theo đó, bà N gây thương tích cho D với tỷ lệ thương tật là 31% rất có thể sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 của Điều này nếu có đủ .

Tuy nhiên, theo phân tích các tình tiết của vụ việc trên, thì bà N cũng có thể sẽ chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 135 , về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động.

“Điều 135. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh

1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích của người đó, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Đối với 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người.”

Sở dĩ nói như vậy là vì:

Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của người bị hại hoặc người khác gây ra là trường hợp trước khi có hành vi phạm tội, người phạm tội không còn nhận thức đầy đủ về hành vi của mình như lúc bình thường, nhưng chưa mất hẳn khả năng nhận thức do hành vi trái pháp luật của người người bị hại hoặc khác gây ra.

Để xác định trường hợp người phạm tội bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của người bị hại hoặc người khác gây ra phải căn cứ vào các yếu tố sau:

– Trạng thái tinh thần của người phạm tội phải ở trạng thái bị kích động: Người bị kích động về tinh thần là người không còn nhận thức đầy đủ về hành vi của mình như lúc bình thường, nhưng chưa mất hẳn khả năng nhận thức. Lúc đó họ mất khả năng tự chủ và không thấy hết được tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình; trạng thái này chỉ xảy ra trong chốc lát, sau đó tinh thần của họ trở lại bình thường như trước; trạng thái tinh thần bị kích động ở những mức độ khác nhau. Đây được coi là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm e khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

– Phải có hành vi trái pháp luật của người bị hại hoặc người khác: Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc về tài sản do tội phạm gây ra

– Hành vi trái pháp luật của người bị hại hoặc người khác phải là nguyên nhân làm cho người phạm tội bị kích động mạnh về tinh thần: Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật với tinh thần bị kích động là mối quan hệ tất yếu nội tại có cái này thì ắt có cái kia. Không có hành vi trái pháp luật của người khác thì không có tinh thần bị kích động của người phạm tội.

– Hành vi trái pháp luật của người bị hại hoặc người khác phải là hành vi đối với người phạm tội hoặc đối với người thân thích hoặc hoặc đối với người khác có quan hệ thân thiết với người phạm tội.

Xét trong trường hợp này, hành vi đánh D của bà N là do ông B và D đã kéo sang nhà bà N tranh cãi, không những thế ông B còn ra tay đánh C là con trai của bà N. Việc nhìn thấy người khác đánh con của mình thì không ai có thể đứng yên được, do đó, vì quá kích động nên bà N đã ra tay đánh D bị thương, khi đanh D có thể bà N không lường trước được hành vi đó của mình lại gây hậu quả nghiêm trọng đến vậy.

Do vậy, bà N có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 135 , về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Tuy nhiên, nếu ông B và bà D có thể thương lượng thỏa thuận với nhau về việc bồi thường thiệt hại thì bà N có thể không bị khởi tố, vì đây là một trường hợp đặc biệt, nếu ông B có yêu cầu khởi tố bà N thì bà N mới bị khởi tố theo quy định tại Điều 155

6. Gây thương tích do tình thế cấp thiết có phải chịu trách nhiệm hình sự không?

Thưa luật sư, Em đang làm một chuyên đề về pháp luật hình sự. Em đã tìm hiểu nhưng không giải đáp được câu hỏi “Gây thương tích do tình thế cấp thiết có phải chịu trách nhiệm hình sự không?”.

Xin luật sư định hướng dùm. Em cảm ơn!

:

Căn cứ theo Điều 23 ,

“Điều 23. Tình thế cấp thiết

1. Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh gây thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa.

Hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải là tội phạm.

2.Trong trường hợp thiệt hại gây ra rõ ràng vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết, thì người gây thiệt hại đó phải chịu trách nhiệm hình sự.”

Theo quy định tại điều 51

“Điều 51. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

1. Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;”

Như vậy, cố ý gây thương tích do tình thế cấp thiết thiêt không phải tội phạm nên không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết thì sẽ bị chịu trách nhiệm hình sự và hành vi này là một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điều 51 , .

Trên đây là sự tư vấn của chúng tôi, nếu còn thắc mắc cần giải đáp vui lòng liên hệ bộ phận luật sư/ chuyên viên tư vấn trực tiếp qua tổng đài 24/7: hoặc đến trụ sở văn phòng công ty để nhận được sự hỗ trợ, tư vấn từ Xin giấy phép.

Rất mong nhận được sự hợp tác !

Trân trọng./.

Bộ phận hình sự – Công ty Xin giấy phép

Nếu bạn cần thêm thông tin xin đặt câu hỏi vào ô hỏi đáp bên dưới để chúng tôi có thể hỗ trợ cho bạn nhiều hơn. Xin chân thành cảm ơn.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *