Tội vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng

Xin chào bạn đến với chuyên trang tư vấn dịch vụ pháp luật. Sau đây là một số nội dung chỉ mang tính chất tham khảo. các bạn có thể đọc để hiểu thêm nhé.

Khái niệm an toàn tín dụng hiện nay được truyền thông thường xuyên nhắc đến. Vậy, làm sao để bảo vệ an toàn tín dụng dưới góc độ luật hình sự ? Luật sư phân tích một số kía cạnh pháp lý cơ bản về vấn đề trên:

Mục lục bài viết

1. Tội vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng

Tội vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng được quy định tại Điều 206 cụ thể:

Tội sử dụng trái phép quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng

1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây gây thiệt hại cho người khác về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Cấp tín dụng cho trường hợp không được cấp tín dụng, trừ trường hợp cấp dưới hình thức phát hành thẻ tín dụng;

b) Cấp tín dụng không có bảo đảm hoặc cấp tín dụng với điều kiện ưu đãi cho đối tượng bị hạn chế cấp tín dụng theo quy định của pháp luật;

c) Vi phạm quy định về tỷ lệ bảo đảm an toàn cho hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng;

d) Cố ý nâng khống giá trị tài sản bảo đảm khi thẩm định giá để cấp tín dụng đối với trường hợp phải có tài sản bảo đảm;

đ) Vi phạm quy định của pháp luật về tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với đối tượng bị hạn chế cấp tín dụng;

e) Cấp tín dụng vượt giới hạn so với vốn tự có đối với một khách hàng và người có liên quan, trừ trường hợp có chấp thuận của người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật;

g) Vi phạm quy định của pháp luật về góp vốn, giới hạn góp vốn, mua cổ phần, điều kiện cấp tín dụng;

h) Phát hành, cung ứng, sử dụng phương tiện thanh toán không hợp pháp; làm giả chứng từ thanh toán, phương tiện thanh toán; sử dụng chứng từ thanh toán, phương tiện thanh toán giả;

i) Kinh doanh vàng trái phép hoặc kinh doanh ngoại hối trái phép;

k) Tiến hành hoạt động ngân hàng khi chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép theo quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật các tổ chức tín dụng.

Như vậy, người phạm tội này phải là người có nhiệm vụ, trách nhiệm trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng.

Tội phạm này được thực hiện do lỗi cố ý. Bằng nghiệp vụ của mình cố ý thực hiện các hành vi như: cấp tín dụng cho những trường hợp không được cấp tín dụng, cấp tín dụng cho các đối tượng bị hạn chế cấp tín dựng, cố ý khống giá trị tài sản bảo đảm khi thẩm định giá để cấp tín dụng đống với trường hợp phải có tài sản bảo đảm, tiến hành hoạt động ngân hàng khi chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép…

– Tội phạm này bị phạt tiền từ 50 triệu đồng đến 300 triệu đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm nếu gây thiệt hại cho người khác về tài sản từ 100 triệu đồng đến dưới 300 triệu đồng và thuộc một trong các trường hợp theo quy định tại Khoản 1 Điều 206 ;

– Tội phạm bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm nếu gây thiệt hại về tài sản từ 300 triệu đồng đến dưới 01 tỷ đồng theo quy định tại Khoản 2 Điều 206 ;

– Tội phạm bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm nếu gây thiệt hại về tài sản từ 01 tỷ đồng đến dưới 03 tỷ đồng theo quy định tại Khoản 3 Điều 206 ;

– Tội phạm này bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm nếu gây thiệt hại về tài sản từ 03 tỷ đồng trở lên theo quy định tại Khoản 4 Điều 206 ;

Ngoài ra, Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Trân trọng./.

>> Tham khảo dịch vụ pháp lý :

2. Tài liệu tham khảo – Luận cứ bào chữa tội vi phạm quy định cho vay trong hoạt động của tổ chức tín dụng (theo Điều 179 Bộ luật hình sự 1999)

Luật cứ này chỉ có giá trị tham khảo trong các phiên tòa tập sự, tình huống trong kịch bản là một tình huống mô phỏng. Luật áp dụng trong tình huống này đã được thay thế, sửa đổi, bổ sung bằng các điều luật mới trong quy định tại

Kính thưa Hội đồng xét xử, Kính thưa nhị vị đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa, Tôi là Luật sư XXX, bào chữa cho bị cáo Trần Văn Tuyến, nguyên Giám đốc Ngân hàng NN & PTNT-Chi nhánh Chợ Lớn, bị VKSND TP.HCM truy tố và Quý Tòa đưa ra xét xử sơ thẩm về tội “Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của tổ chức tín dụng” theo khoản 3 Điều 179 Bộ Luật Hình sự.

Trong quá trình Quý Tòa thụ lý vụ án, tôi đã có 2 văn bản kiến nghị ngày 12-10-2009 (đối với cáo trạng số 311/VKS-P1 ngày 13-7-2009) và kiến nghị ngày 24-5-2010 (đối với cáo trạng số 78/VKS-P1 ngày 31-3-2010). Tôi vẫn giữ nguyên các quan điểm và kiến nghị nêu trên trong 2 văn bản nói trên. Hôm nay, sau khi nghe thẩm vấn công khai tại phiên tòa và vị đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố đã phát biểu luận tội, tôi xin phát biểu quan điểm bào chữa cho bị cáo Trần Văn Tuyến như sau:

I- Một số vấn đề về tố tụng

1- Về giám định

Tại cáo trạng số 311/VKS-P1 ngày 13-7-2009, VKSND TP.HCM qui kết Trần Văn Tuyến với tư cách Giám đốc Chi nhánh Ngân hàng NN & PTNT Chợ Lớn đã bỏ qua nhiều quy định của Nhà nước trong việc xét duyệt, thẩm định và xét cho vay, tạo điều kiện sơ hở cho Hà, Hòa chiếm đoạt tổng số tiền 10.597.029.300 đồng của chi nhánh Ngân hàng NN & PTNT Chợ Lớn.

Tại cáo trạng số 78/VKS-P1 ngày 31-3-2010, VKSND TP.HCM lại kết luận Trần Văn Tuyến tạo điều kiện sơ hở cho Hà, Hòa chiếm đoạt 3.000 lượng vàng SJC và 18 tỷ đồng của Ngân hàng NN & PTNT chi nhánh Chợ Lớn!?

Sai biệt này là đặc biệt lớn, lại không có kết luận giám định nào làm căn cứ! Đáng lý ra cơ quan điều tra phải trưng cầu giám định tư pháp về tài chính-kế toán đối với Cty Thành Phát. Trong khi đó, tại Quyết định trưng cầu giám định bổ sung số 133-33/QĐ-PC15 (Đ8) ngày 18-01-2010, cơ quan điều tra lại chỉ yêu cầu giám định diện tích 79.652m2 đất theo 33 giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất (QSDĐ) của các hộ dân có giá trị là bao nhiêu tiền, với lý do “Ngày 15-12-2006, theo kiến nghị của Cơ quan Cảnh sát Điều tra CA TP.HCM, UBND TP.HCM có Quyết định số 5796/QĐ-UBND thu hồi 02 quyết định cho phép chuyển mục đích sử dụng đất để đầu tư dự án của Cty Thành Phát tại xã Đông Thạnh, Huyện Hóc Môn” mà không đề cập gì đến việc UBND TP.HCM đã có văn bản số 3508/UBND-ĐT ngày 12-6-2007 giao cho Cty TNHH XD&TM 12 làm chủ đầu tư dự án thay cho Cty Thành Phát! Rõ ràng, Quyết định trưng cầu giám định này và báo cáo kết quả thẩm định giá của Cty CP Định giá & Dịch vụ Tài chính Việt Nam-Chi nhánh Miền Nam là không đúng bản chất sự việc thể hiện trong hồ sơ vụ án, không phù hợp quy định Luật Đất đai (Điều 14 khoản 2). Rất tiếc đại diện cơ quan giám định không có mặt tại phiên tòa để chúng tôi làm rõ quyền và trách nhiệm của người giám định theo Điều 60 Bộ Luật Tố tụng Hình sự. Cuối cùng thì kết quả giám định này không cần thiết, không phục vụ được gì cho vụ án!

>>

Luật sư bào chữa tại tòa án ?

– Ảnh minh họa

2- Về việc thanh tra của Ngân hàng Nhà nước

Ngày 02-7-2008, Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh TP.HCM đã có kết luận thanh tra số 231/KL-TTR.m đối với Ngân hàng NN & PTNT chi nhánh Chợ Lớn.

Ngày 12-8-2008, Ngân hàng Nhà nước chi nhánh TP. HCM cũng đã có văn bản số 1394/NHNN-HCM.08 báo cáo Thanh tra Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về kết quả thanh tra.

Ngày 12-8-2008 cơ quan điều tra khởi tố vụ án, ngày 30-01-2009 bắt tạm giam Trần Văn Tuyến.

Ngày 10-02-2009 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam lại ra Quyết định số 16/QĐ-TTR2 tiến hành thanh tra đột xuất Ngân hàng NN & PTNT chi nhánh Chợ Lớn, và tại kết luận thanh tra số 40/KL-TTR2.m ngày 15-4-2009 đã kiến nghị phục hồi lại nợ của Cty Thành Phát tại chi nhánh Ngân hàng NN & PTNT Chợ Lớn! Việc làm này của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là một quy trình ngược, vi phạm Luật Thanh tra và Bộ Luật Tố tụng Hình sự. Cụ thể là:

– Luật Thanh tra quy định: Người ra quyết định thanh tra chuyển hồ sơ vụ việc vi phạm pháp luật sang cơ quan điều tra (CQĐT) trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày phát hiện có dấu hiệu của tội phạm, (điểm m khoản 1 Điều 42 ). CQĐT có trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ vụ việc vi phạm pháp luật quy định tại điểm m khoản 1 Điều 42 Luật này và xử lý theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự (Điều 57).

– Bộ Luật Tố tụng Hình sự quy định: Cơ quan thanh tra khi phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm thì phải chuyển ngay các tài liệu có liên quan và kiến nghị CQĐT, Viện kiểm sát (VKS) xem xét khởi tố vụ án hình sự (khoản 2 Điều 26). Khi không có căn cứ khởi tố vụ án hình sự thì CQĐT ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự và thông báo cho cơ quan, tổ chức đã tố giác biết rõ lý do; nếu xét cần xử lý bằng biện pháp khác thì chuyển hồ sơ cho cơ quan, tổ chức hữu quan giải quyết (khoản 1 Điều 108). Khi xét thấy cần thiết thì CQĐT ra quyết định trưng cầu giám định (khoản 1 Điều 155).

Rõ ràng, theo pháp luật quy định chỉ có trường hợp cơ quan thanh tra phát hiện tội phạm chuyển hồ sơ đề nghị CQĐT khởi tố, nếu không có dấu hiệu tội phạm, CQĐT sẽ trả hồ sơ cho Thanh tra xử lý hành chính. Trường hợp CQĐT đã khởi tố vụ án, khởi tố bắt giam bị can thì Cơ quan Thanh tra không thể nhảy vào thanh tra để cung cấp kết luận thanh tra cho CQĐT làm căn cứ buộc tội; Cơ quan Thanh tra không phải là cơ quan giám định! Vì vậy, việc thanh tra của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước VN là vi phạm pháp luật tố tụng, nội dung kết luận của thanh tra thực tế cũng không ai thực hiện, nhưng đây lại là căn cứ khởi tố và truy tố bị cáo Trần Văn Tuyến! Rất tiếc không có mặt đại diện Thanh tra Ngân hàng Nhà Nước tại phiên tòa để làm sáng tỏ các vấn đề này.

3- Về sự liên quan của Cty TNHH Xây dựng và Thương mại 12

UBND TP.HCM đã ban hành 2 Quyết định số 6577/QĐ-UB ngày 30-12-2004 và số 635/QĐ-UB ngày 15-02-2005 cho phép Cty Thành Phát được chuyển mục đích sử dụng đất để đầu tư xây dựng cụm dân cư và cụm công nghiệp sạch tại xã Đông Thạnh, huyện Hóc Môn, Cty Thành Phát tự chịu trách nhiệm về nguồn vốn đầu tư và hiệu quả của dự án. Căn cứ 2 Quyết định này, Ngân hàng NN & PTNT Chợ Lớn đã cho Cty Thành Phát vay để thực hiện dự án. Cty Thành Phát đã được phê duyệt quy hoạch chi tiết 1/500, đã nộp tiền chuyển mục đích sử dụng đất. Cty Thành Phát đã cho ngân hàng toàn bộ giá trị quyền sử dụng đất (QSDĐ) và tài sản hình thành trên đất dự án. Theo kiến nghị của CQĐT, ngày 15-12-2006, UBND TP.HCM lại ra Quyết định số 5796/QĐ-UBND thu hồi 2 quyết định nói trên, nhưng lại không giải quyết hậu quả nguồn vốn của Cty Thành Phát đã đầu tư vào dự án. Vì vậy, để khắc phục hậu quả của Quyết định thu hồi này, theo đề nghị của Sở Kế hoạch & Đầu tư, ngày 12-6-2007 UBND TP.HCM đã ban hành văn bản số 3508/UBND-ĐT giao cho Cty TNHH Xây dựng & Thương mại 12 làm chủ đầu tư dự án thay cho Cty Thành Phát. Căn cứ văn bản này, Ngân hàng NN & PTNT Chợ Lớn đã cho Công ty 12 vay để thanh toán nợ thay cho Cty Thành Phát và tiếp tục thực hiện dự án, tài sản thế chấp vẫn là toàn bộ QSDĐ dự án nói trên. Quyết định số 5796/QĐ-UBND-ĐT ngày 15-12-2006 và văn bản số 3508/UBND ĐT ngày 12-6-2007 của UBND TP.HCM thực chất là thủ tục để chuyển dự án đầu tư từ Cty Thành Phát qua cho Cty 12. Do đó, việc cáo trạng cắt bỏ văn bản số 3508/UBND-ĐT ngày 12-6-2007 của UBND TP.HCM, không đưa Cty 12 vào vụ án, đã làm ảnh hưởng đến việc “xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội…” theo quy định tại Điều 10 Bộ Luật Tố tụng Hình sự, từ đó đã đánh giá không chính xác bản chất và hậu quả của vụ án!

Theo quy định tại Điều 196 Bộ Luật Tố tụng Hình sự về giới hạn của việc xét xử: Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà VKS truy tố và tòa án đã quyết định đưa ra xét xử. Tại Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 130/2010/QĐ ngày 12/7/2010, Tòa án Nhân dân (TAND) TP.HCM không triệu tập đại diện Cty TNHH XD&TM 12, mà chỉ triệu tập cá nhân ông Trần Duy Doanh (Giám đốc Cty 12) với tư cách nhân chứng. Thế nhưng, trong phần thẩm vấn tại phiên tòa, ông Trần Duy Doanh lại phải trả lời về trình tự thủ tục để được UBND TP.HCM giao làm chủ đầu tư dự án thay cho Cty Thành Phát, về việc trả nợ thay cho Cty Thành Phát và về việc xác định yêu cầu đối với khoản nợ trả thay này sau khi dự án lại bị UBND TP.HCM thu hồi! Chúng tôi cho rằng việc làm sáng tỏ các vấn đề này là hết sức cần thiết, vì nó trực tiếp liên quan đến vụ án. Nhưng rất tiếc về mặt tố tụng, toàn bộ sự việc này không hề được nêu trong cáo trạng, và ông Trần Duy Doanh được triệu tập là nhân chứng với tư cách cá nhân nên các lời khai của ông Doanh tại tòa về các vấn đề liên quan Cty TNHH XD&TM 12 không phải là chứng cứ pháp lý để Hội đồng xét xử quyết định.

II/- Đối với tội danh “vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của tổ chức tín dụng”:

Cáo trạng số 311/VKS-P1 ngày 13-7-2009 kết luận: “Trần Văn Tuyến với tư cách là Giám đốc chi nhánh Ngân hàng NN & PTNT Chợ Lớn đã bỏ qua nhiều quy định của Nhà nước trong việc xét duyệt, thẩm định và xét cho vay, tạo điều kiện sơ hở cho Hà, Hòa chiếm đoạt tổng số tiền 10.597.629.300 đồng của Chi nhánh Ngân hàng NN & PTNT Chợ Lớn”.

Cáo trạng số 78/VKS-P1 ngày 31-3-2010 lại kết luận: Trần Văn Tuyến tạo điều kiện sơ hở cho Hà, Hòa chiếm đoạt 3.000 lượng vàng SJC và 18 tỷ đồng của Ngân hàng NN & PTNT Chợ Lớn.

Kết luận của 2 Cáo trạng trước và sau mâu thuẫn và đều không có căn cứ pháp lý. Chúng tôi xin làm sáng tỏ 2 vấn đề sau đây:

+ Trần Văn Tuyến có vi phạm quy định của pháp luật khi quyết định cho Cty TNHH Thành Phát vay 3.000 lượng vàng và 18 tỷ đồng hay không?

+ Quyết định cho vay này có gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng không? Chi nhánh Ngân hàng NN & PTNT Chợ Lớn có bị Hà, Hòa chiếm đoạt 3.000 lượng vàng và 18 tỷ đồng không?

1- Tuyến có vi phạm các quy định về cho vay hay không?

A- Các quy định về cho vay:

a) “Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng”, ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ– NHNN ngày 31-12-2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, quy định:

– Khách hàng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác và hợp pháp của các tài liệu gởi cho tổ chức tín dụng (Điều 14).

– Khách hàng có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ trung thực các thông tin tài liệu liên quan đến việc vay vốn và chịu trách nhiệm về tính chính xác của các thông tin, tài liệu đã cung cấp (điểm a khoản 2 Điều 24).

b) “Quy định cho vay đối với khách hàng trong hệ thống Ngân hàng NN & PTNT Việt Nam”, ban hành kèm theo Quyết định số 72/QĐ-HĐQT-TD ngày 31-3-2002 của Chủ Tịch HĐQT Ngân hàng NN & PTNT Việt Nam, quy định:

+ Về quy trình xét duyệt cho vay (Điều 16):

– Cán bộ tín dụng được phân công giao dịch với khách hàng có nhu cầu vay vốn có trách nhiệm hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ vay vốn và tiến hành thẩm định các điều kiện vay vốn theo quy định.

-Trưởng phòng tín dụng có trách nhiệm kiểm tra tính hợp pháp của hồ sơ và báo cáo thẩm định do cán bộ tín dụng lập, tiến hành xem xét tái thẩm định (nếu cần thiết), ghi ý kiến vào báo cáo thẩm định và trình giám đốc quyết định.

– Giám đốc NHNN nơi cho vay căn cứ báo cáo thẩm định, tái thẩm định (nếu có) do phòng tín dụng trình, quyết định cho vay hoặc không cho vay.

+ Về phân định trách nhiệm đối với cán bộ (Điều 30):

– Cán bộ tín dụng (CBTD) trực tiếp thẩm định là người chịu trách nhiệm về khoản vay do mình thực hiện; hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ vay vốn, thẩm định các điều kiện vay vốn theo quy định; lập báo cáo thẩm định; cùng khách hàng lập Hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm tiền vay; thực hiện kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay; lưu giữ hồ sơ theo quy định.

– Trưởng phòng tín dụng chịu trách nhiệm phân công đôn đốc cán bộ tín dụng thực hiện đầy đủ quy chế cho vay, kiểm soát nội dung thẩm định của CBTD, tiến hành tái thẩm định (nếu thấy cần thiết) và ghi ý kiến của mình trên hồ sơ.

– Giám đốc ngân hàng nơi cho vay là người chịu trách nhiệm chỉ đạo điều hành nghiệp vụ kinh doanh theo quyền hạn của chi nhánh và là người chịu trách nhiệm về quyết định cho vay.

c) “Quy định việc thực hiện các biện pháp bảo đảm tiền vay trong hệ thống Ngân hàng NN & PTNT Việt Nam”, ban hành kèm theo Quyết định số 300/QĐ-HĐQT-TD ngày 24-9-2003, quy định:

+ Điều kiện đối với khách hàng vay được bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay (Điều 19 khoản 1):

– Có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ trả nợ.

– Có dự án đầu tư khả thi và có hiệu quả.

– Có mức vốn tự có tham gia vào dự án đầu tư và giá trị tài sản bảo đảm đáp ứng được một trong ba trường hợp sau:

* Có vốn tự có tối thiểu bằng 15% tổng mức vốn đầu tư.

* Có vốn tự có cộng (+) giá trị tài sản bảo đảm tiền vay tối thiểu bằng 15% tổng mức vốn đầu tư.

* Có giá trị tài sản bảo đảm tiền vay tối thiểu bằng 15% tổng mức vốn đầu tư.

B/- Đối chiếu với thực tế quá trình xét duyệt, thẩm định và quyết định cho Cty TNHH Thành Phát vay:

Theo cáo trạng và tài liệu trong hồ sơ đã thể hiện:

+ Căn cứ Quyết định số 6577/QĐ-UB ngày 30-12-2004 của UBND. TP.HCM cho phép Cty Thành Phát chuyển mục đích sử dụng đất để đầu tư xây dựng cụm dân cư tại xã Đông Thạnh, huyện Hóc Môn với diện tích 72.000 m2 , ngày 09-8-2005 Trần Thị Hà lập phương án vay vốn đầu tư thực hiện dự án, trong đó ghi rõ:

* Tổng nhu cầu sử dụng vốn: 181.220.252.000 đồng, trong đó:

– Vốn tự có của chủ đầu tư: 139.220.252.000 đồng, chiếm khoản 76,83%.

– Nhu cầu sử dụng vốn vay: 42.000.000.000 đồng (23,17%).

Ngày 31-8-2005, Trần Thị Hà ký “Giấy đề nghị vay vốn” xin vay 42.000.000.000 đồng, tài sản thế chấp là toàn bộ giá trị QSDĐ và tài sản trên đất dự kiến hình thành của dự án khu dân cư (72.000m2) giá trị là 149.632.502.000 đồng.

Ngày 10-9-2005, Nguyễn Công Định lập báo cáo thẩm định ghi nhận:

– Vốn tự có, coi như tự có của Cty Thành Phát là 139.220.252.000 đồng, bằng 76,83% tổng số vốn đầu tư.

– Cty Thành Phát có khả năng tài chính (chi phí xây dựng dở dang là 63 tỷ đồng), có nguồn vốn tự chủ tốt (năm 2003 là 5,2 tỷ đồng, năm 2004 là 50,2 tỷ đồng), có khả năng quản lý và kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh BĐS; đủ điều kiện xin vay 42 tỷ đồng, đề nghị xét duyệt cho Cty Thành Phát vay 42 tỷ đồng.
Với vai trò kiểm soát báo cáo thẩm định của nhân viên tín dụng, Lưu Thị Minh Hiền (Trưởng Phòng tín dụng) ký duyệt vào báo cáo thẩm định, chấp nhận đề xuất cho Cty Thành Phát được vay 42 tỷ đồng.
Ngày 15-9-2005 Trương Len Sang (nhân viên phòng thẩm định) lập báo cáo thẩm định ghi nhận Cty Thành Phát đủ điều kiện xin vay 42 tỷ đồng) ký và Trịnh Thế Việt (Trưởng phòng thẩm định duyệt vào báo cáo thẩm định đồng ý cho Cty Thành Phát vay 42 tỷ đồng. Do đó, việc Trần Văn Tuyến quyết định cho vay là hoàn toàn đúng các quy định viện dẫn trên. Theo lời khai của Lưu Thị Minh Hiền (BL 1015 ngày 13-3-2008) thì Hà và Hòa đến phòng tín dụng tiếp xúc với Hiền và Định đặt vấn đề xin vay, Hiền phân công Định trực tiếp theo dõi kiểm tra các điều kiện vay vốn. Trước khi quyết định cho vay, Hiền đi cùng Định, Sang, Việt và Tuyến xem thực địa. Tại lời khai ngày 19-5-2008 (BL 487), Hà cũng xác nhận trước khi ký Hợp đồng vay tiền Hà đã nhiều lần gặp Định đặt vấn đề xin vay 42 tỷ đồng.
Tất cả các cán bộ: Hiền, Định, Sang, Việt đều xác nhận việc thẩm định và ký đề xuất cho vay 42 tỷ đồng hoàn toàn độc lập, không có tác động nào của lãnh đạo chi nhánh. Do đó, việc cáo trạng quy kết “do có mối quan hệ với Hà nên Tuyến đã phê duyệt 2 báo cáo thẩm định trên đồng ý cho Cty Thành Phát vay 42 tỷ đồng” là hoàn toàn không có căn cứ!
Tại Bút lục 1001 ngày 04-02-2009, Lưu Thị Minh Hiền khẳng định: “Căn cứ khoản 2 Điều 30 Quy định 72/QĐ-HĐQT-TD ngày 31-3-2002 của Ngân hàng NN & PTNT Việt Nam, khi xem xét cho Cty Thành Phát vay, tôi tin tưởng hồ sơ cung cấp của khách hàng vay, báo cáo thẩm định của CBTD, nội dung báo cáo thẩm định là đúng, vì:
1- Hồ sơ pháp lý đơn vị vay và hồ sơ dự án đầy đủ.
2- Khách hàng đã vay vốn ngân hàng và đã trả nợ đầy đủ.
3- Sau khi Phòng tín dụng thẩm định xong, Phòng thẩm định còn thẩm định lại.
4- Dự án vay vốn đầu tư có hiệu quả, thuận lợi nằm ở trung tâm đối diện quận 12.
Vì là loại vay thế chấp tài sản hình thành bằng vốn vay nên sau khi giải ngân mới có được TSTC. Tổng cộng 2 lần giải ngân, khách hàng nộp 33 bản chính sổ đỏ, diện tích 121.613m2, giấy nộp thuế chuyển QSDĐ, tờ khai trước bạ, biên lai thu thuế nhà đất…”
Tại Bút lục số 322, ngày 04-4-2008 Trương Len Sang xác nhận: ”Phần nhận xét đánh giá và kiến nghị của tôi: + Đánh giá: Cty Thành Phát có tình hình tài chính tốt, dự án xây dựng cụm dân cư xã Đông Thạnh đã và đang tiến hành đền bù giải tỏa. Qua xem xét dự án đảm bảo khả năng trả nợ. Tài sản thế chấp hình thành từ vốn vay, cán bộ tín dụng theo dõi tiến độ dự án và quá trình hình thành tài sản để hoàn chỉnh giấy tờ tài sản, đảm bảo tài sản hình thành từ vốn vay đúng quy định. + Kiến nghị: Đề nghị duyệt cho vay”.
Kết luận thanh tra số 231/KL-TTr.m ngày 02-7-2008 của Thanh tra Ngân hàng Nhà Nước Chi nhánh TP.HCM đã đánh giá: Nhìn chung Chi nhánh Chợ Lớn có chấp hành quy chế cho vay theo Quy định của Thống đốc NHNN, nhưng trong quá trình giải quyết cho vay vẫn còn những điểm chưa đúng như đã nêu:
+ Thẩm định chưa chính xác vốn tự có;
+ Giải ngân không theo tiến độ thực hiện dự án;
+ Trong hồ sơ tài sản thế chấp, không có hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa Cty Thành Phát và các hộ dân.
Kết luận thanh tra số 40/KL-TTr2.m ngày 15-4-2009 của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã đánh giá một số vi phạm quy định như sau:
+ Vi phạm quy định kiểm tra, giám sát vốn vay: trách nhiệm chính là Nguyễn Công Định.
+ Vi phạm phân loại nợ: Trách nhiệm chính là Nguyễn Công Định.
+ Vi phạm về lưu giữ hồ sơ vay: Trách nhiệm chính là Nguyễn Công Định.
Rõ ràng “những điểm chưa đúng quy định” (theo kết luận Thanh tra NHNN Chi nhánh TP.HCM) và “một số vi phạm quy định” (theo kết luận Thanh tra NHNN Việt Nam) đều không thuộc trách nhiệm của Giám đốc Trần Văn Tuyến, không làm ảnh hưởng đến Quyết định cho vay, và thực tế cũng không gây hậu quả thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng cho ngân hàng (như phần sau chúng tôi sẽ phân tích). Do đó, cáo trạng qui kết Trần Văn Tuyến đã bỏ qua nhiều quy định của Nhà nước trong việc xét duyệt, thẩm định và xét cho vay, tạo điều kiện sơ hở cho Hà, Hòa ngân hàng là không có căn cứ.
2/- Về hậu quả thiệt hại:
a) Cả 2 bản cáo trạng đều xác nhận Trần Thị Hà đã sử dụng vốn vay chi:
– 6.293.400.000 đồng để đền bù giải tỏa 20.778 m2 đất trong dự án khu dân cư (tương ứng 11 Giấy chứng nhận QSDĐ);
– Sử dụng vốn vay chi 17.594.700.000 đồng đền bù giải tỏa 58.874m2 đất trong dự án khu công nghiệp (tương ứng 22 Giấy chứng nhận QSDĐ);
– Chi nộp thuế chuyển quyền, chuyển mục đích sử dụng đất và nộp thuế đất trong dự án cụm dân cư là 2.446.976.000 đồng;
– Trả lãi vay cho Ngân hàng NN&PTNT Chi nhánh Chợ Lớn là 6.366.894.700 đồng;
– Còn lại 10.597.029.000 đồng Trần Thị Hà sử dụng cho cá nhân.
Đối với số tiền sử dụng cho cá nhân này, Cáo trạng số 78/VKS-P1 ngày 31/3/2010 cũng đã kết luận: “Theo đơn tố giác của Trần Thị Hà về việc Hà sử dụng tiền vay của Ngân hàng NN&PTNT Chi nhánh Chợ Lớn cho một số cá nhân khác vay nhiều tỷ đồng, đề nghị CQĐT thu hồi để khắc phục hậu quả. Qua điều tra nhận thấy Trần Thị Hà còn vay nhiều cá nhân và ngân hàng khác, việc Hà khai sỏ tiền trên là từ nguồn gốc vay của Ngân hàng NN & PTNT Chi nhánh Chợ Lớn là chưa có cơ sở. Tuy nhiên, CQĐT đã có Quyết định số 1267/QĐ-CQĐT(PC15) ngày 31-7-2009 tách việc khiếu nại, tố giác của Trần Thị Hà để điều tra, giải quyết riêng”. Chưa điều tra giải quyết xong thì chưa có căn cứ quy kết Hà chiếm đoạt số tiền này. Rõ ràng, hầu hết số tiền vay đã được Hà đầu tư vào dự án, do đó việc quy kết Tuyến tạo điều kiện sơ hở cho Hà, Hòa chiếm đoạt 3.000 lượng vàng và 18 tỷ đồng của ngân hàng là hoàn toàn không có căn cứ.
b) Theo quy định cho vay và bảo đảm tiền vay cũng như Hợp đồng tín dụng và Hợp đồng thế chấp tài sản thì khách hàng vay có nghĩa vụ sử dụng vốn vay đúng mục đích, thực hiện đúng các nội dung đã thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng và các cam kết khác. Trong trường hợp khách hàng vay vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng, ngân hàng có quyền chấm dứt hợp đồng trước thời hạn và xử lý tài sản thế chấp thu hồi nợ. Trong trường hợp này, dự án đầu tư đang trong quá trình thực hiện. Hợp đồng tín dụng chưa đáo hạn, tài sản thế chấp chưa xử lý thu hồi nợ, thì không có căn cứ gì để có thể kết luận ngân hàng bị Hà, Hòa chiếm đoạt tiền vay của ngân hàng!.
c) Theo kiến nghị của CQĐT, ngày 15-12-2006 UBND TP.HCM có Quyết định số 5796/QĐ-UBND thu hồi Quyết định số 6577/QĐ-UB ngày 30-12-2004 và Quyết định số 635/QĐ-UB ngày 15-02-2005, không cho Cty Thành Phát đầu tư dự án cụm dân cư và cụm công nghiệp tại xã Đông Thạnh. Ngày 12-6-2007, UBND TP.HCM đã có văn bản số 3508/UBND-ĐT chấp thuận theo đề xuất của Sở KHĐT, giao cho Cty TNHH Xây dựng & Thương mại 12 làm chủ đầu tư 2 cụm dự án nói trên thay cho Cty TNHH Xây dựng Thương mại & kinh doanh nhà Thành Phát. Cty 12 tiếp tục hoàn chỉnh việc bồi thường tái định cư, lập thủ tục giao đất để thực hiện dự án. Như vậy, Cty 12 là đơn vị kế thừa tiếp tục thực hiện 2 dự án của Cty Thành Phát, được hưởng các quyền lợi và có trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ của Cty Thành Phát đối với 2 dự án nói trên. Từ các căn cứ này, ngày 15-6-2007 Chi nhánh Ngân hàng NN&PTNT Chợ Lớn đã ký Hợp đồng tín dụng số 29.07.01/HĐTD cho Cty 12 vay 6.300 lượng vàng SJC trong thời hạn 60 tháng để đầu tư dự án xã Đông Thạnh, tài sản thế chấp hình thành từ vốn vay là toàn bộ dự án xây dựng nhà ở (bao gồm đất và tài sản gắn liền với đất trên khu đất 72.000 m2) trị giá 295 tỷ đồng, theo Hợp đồng thế chấp tài sản hình thành từ vốn vay số 29.07.01/BĐTV ngày 15-6-2007. Ngày 18-6-2007, Cty 12 đã sử dụng 4.733,329 lượng vàng vay từ Hợp đồng này để thanh toán thay cho Cty Thành Phát số nợ 3.000 lượng vàng, 18 tỷ đồng nợ gốc và 3,063 tỷ đồng tiền lãi phát sinh. Tại kết luận Thanh tra số 231/KL-TTr.m 02- ngày 7-2008, Thanh tra Ngân hàng Nhà nước chi nhánh TP.HCM đã kết luận: “Đến thời điểm Thanh tra, Cty Thành Phát không còn dư nợ tại Chi nhánh Chợ Lớn”. Tại văn bản số 1394/NHNN-HCM.08 ngày 12-8-2008 gởi Thanh tra Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (BL2543), Thanh tra Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh TP.HCM đã báo cáo: “… Chi nhánh Chợ Lớn cho Cty 12 vay để thực hiện khu dân cư và cụm công nghiệp sạch tại xã Đông Thạnh huyện Hóc Môn là dựa vào công văn số 3508/UBND-ĐT ngày 12-6-2007 của UBND TP.HCM chấp thuận về nguyên tắc giao dự án khu dân cư và cụm công nghiệp sạch xã Đông Thạnh, huyện Hóc Môn giao lại cho Công ty 12 làm chủ đầu tư dự án thay cho Cty Thành Phát. Cty 12 tiếp tục bồi thường đất thực hiện dự án (trong đó có phần đất Cty Thành Phát đã đền bù)… Việc chi nhánh Chợ Lớn cho Cty 12 vay để tiếp tục đền bù là theo tiến độ của dự án… Hồ sơ pháp lý của dự án khu dân cư và cụm công nghiệp sạch tại xã Đông Thạnh Huyện Hóc Môn đã có văn bản số 3508/UBND-ĐT ngày 12-6-2007 của UBND. TP.HCM, về việc chấp thuận cho Cty 12 làm chủ đầu tư dự án thay cho Cty Thành Phát. Việc chi nhánh Chợ Lớn cho Cty 12 vay để thực hiện dự án khu dân cư và cụm công nghiệp sạch tại xã Đông Thạnh huyện Hóc Môn (dự án đang thực hiện) về cơ bản theo quy chế hiện hành của Ngân hàng Nhà nước… Theo Điều 4 của HĐTD số 29.07.01/HD9TD ngày 15-6-2007 giữa Cty 12 và chi nhánh Chợ Lớn: “Hợp đồng có hiệu lực từ ngày ký và được thanh lý khi bên B hoàn trả xong cả gốc và lãi”. Hiện tại, Cty 12 vẫn chưa hoàn trả xong nợ cho chi nhánh Chợ Lớn, HĐTD chưa được thanh lý nên vẫn còn hiệu lực. Cty 12 đang gặp khó khăn trong việc trả nợ cho chi nhánh Chợ Lớn”.
Cty Thành Phát và Cty 12 là hai pháp nhân hoàn toàn độc lập. Cty 12 được thế chấp 2 dự án của Cty Thành Phát để vay tiền chi nhánh Ngân hàng NN&PTNT Chợ Lớn thanh toán nợ thay cho Cty Thành Phát và tiếp tục thực hiện dự án có căn cứ pháp lý là công văn chấp thuận của UBND. TP.HCM. Ở đây không phải là trường hợp đảo nợ. Trong trường hợp có xảy ra tranh chấp giữa 3 bên (ngân hàng, Cty Thành Phát, Cty 12) về quyền lợi và nghĩa vụ liên quan 2 dự án đầu tư nói trên thì việc giải quyết thuộc thẩm quyền của tòa án. Kết luận số 40/KL-TTR2.m ngày 15-4-2009 của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước Việt Nam kiến nghị phục hồi lại nợ của Cty Thành Phát tại Ngân hàng NN&PTNT Chợ Lớn và điều chỉnh dư nợ của Cty 12 tại Ngân hàng NN&PTNT Chợ Lớn nhưng lại không kiến nghị phục hồi lại dự án cho Cty Thành Phát là hoàn toàn trái pháp luật, xâm phạm đến quyền tự định đoạt của các doanh nghiệp trong giao dịch dân sự và hoạt động đầu tư, kinh doanh.
d) Tại văn bản số 3225/NHN0-KTNB ngày 02-7-2010 của Tổng Giám đốc Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam gởi Thống đốc Ngân hàng Nhà nước và Chánh Thanh tra Giám sát ngân hàng, về việc giải trình và đề nghị xem xét kết luận thanh tra số 40/KL-TTR2.m đối với khoản nợ của Cty Thành Phát, nội dung như sau:
“Thứ nhất: Hiện chưa có văn bản quy định cụ thể về cho vay đảo nợ, những trường hợp cụ thể vi phạm quy định này. Đối với việc cho vay Cty 12, NHNN cho vay theo đúng quy định, hồ sơ cho vay đảm bảo đúng quy định tại Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN, có tài sản bảo đảm. Đối với Cty Thành Phát đã thu hồi nợ gốc, lãi đầy đủ, Việc thu hồi nợ của Cty Thành Phát độc lập với việc cho vay Cty 12.
Thứ hai: Việc được coi là “Đảo nợ” chỉ áp dụng trong trường hợp khách hàng vay nợ mới để trả nợ cũ của mình tại chính ngân hàng đó hoặc ở ngân hàng khác.
Liên quan đến vụ việc tại Ngân hàng NN & PTNT Chợ Lớn, sau khi người đại diện theo pháp luật Cty Thành Phát bị khởi tố, ngày 12-6-2007 UBND TP.HCM đã có Quyết định 3508/UBND-ĐT giao cho Cty 12 được thực hiện dự án khu dân cư và cụm công nghiệp sạch tại xã Đông Thạnh-Hóc Môn. Thực chất Cty 12 đã nhận lại toàn bộ phần dự án đã thực hiện trước đây của Cty Thành Phát. Trên cơ sở này, theo đề nghị của Cty 12 NHNN Chợ Lớn đã cho Cty 12 vay 2 khoản vay là: Dự án khu nhà ở tại xã Đông Thạnh và dự án cụm công nghiệp sạch tại xã Đông Thạnh”. Như vậy, đây chỉ là sự chuyển giao việc thực hiện dự án và đương nhiên người nhận lại dự án (Cty 12) phải hoàn lại vốn mà đơn vị trước đó (Cty Thành Phát) đã thực hiện, dẫn tới hành vi thu nợ của Cty Thành Phát vì công ty này không còn được làm chủ đầu tư dự án nữa. Do vậy, đề nghị Ngân hàng Nhà nước chấp nhận việc thu hồi nợ Cty Thành Phát, cho vay Cty 12 không phải là việc đảo nợ.
Thứ ba: Về phía Cty Thành Phát: Đây là Cty TNHH 2 thành viên do vợ chồng bà Trần Thị Hà làm chủ, tại thời điểm đó cả hai vợ chồng bà Hà đã bị khởi tố và hiện đang bị bắt tạm giam.
Chính vì cả hai thành viên sở hữu công ty bị tạm giam nên UBND TP.HCM quyết định giao lại dự án cho Cty 12 làm chủ đầu tư để tiếp tục phát triển dự án. Việc phục hồi lại nợ không thể thực hiện được vì theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, Cty Thành Phát không được tiếp tục làm chủ đầu tư dự án.
Thứ tư: Kể từ ngày kết luận Thanh tra có hiệu lực (15-4-2009) ngược lại thời điểm chuyển giao dự án giữa 2 đơn vị (15-6-2007) là 22 tháng, do thời gian dài, tài sản dự án, công nợ đã có nhiều thay đổi sau khi chủ đầu tư mới nhận lại dự án nên việc phục hồi lại nợ vay là khó khăn.
Với những khó khăn, vướng mắc trên, NHNN&PTNT Việt Nam kính trình Thống đốc Ngân hàng Nhà Nước:
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, Cơ quan Thanh tra giám sát xem xét kết luận thanh tra số 40/KL-TTR2.m ngày 15-4-2009 của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, chấp thuận đề nghị về việc cho vay với khách hàng trong trường hợp này không phải là đảo nợ đồng thời không phải phục hồi lại nợ cho Cty Thành Phát theo kiến nghị tại kết luận thanh tra.”
e/- Tại văn bản số 360/NHNoCL-KTKSNB ngày 06-7-2010, v/v trả lời một số vấn đề liên quan đến vụ việc của Cty Thành Phát do TAND TP.HCM yêu cầu, Giám đốc Ngân hàng NN&PTNT-Chi nhánh Chợ lớn đã xác định:
– Dư nợ đến ngày 17-6-2007 của Cty Thành Phát là 3.000 lượng vàng SJC và 18 tỷ đồng, đến ngày 18-6-2007 Cty Thành Phát đã tất toán số lượng nợ vàng và VNĐ này cho Ngân hàng.
– Đối với Hợp đồng vay 3.000 lượng vàng SJC, ngân hàng đã thu đủ số tiền lãi trên số dư nợ từ ngày vay đến ngày tất toán nợ (ngày 18-6-2007) là 3.619.854.700 đồng.
– Đối với hợp đồng vay 18 tỷ đồng, ngân hàng đã thu đủ số tiền lãi trên số dư nợ từ ngày vay đến ngày tất toán nợ (18-6-2007) là 2.747.040.000 đồng.
– Đối với việc phục hồi lại nợ của Cty Thành Phát theo kết luận thanh tra số 40/KL-TTR2.m ngày 15-4-2009 của Thanh tra Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam thì việc phục hồi lại nợ cho Cty Thành Phát, Chi nhánh NHNN&PTNT Chợ Lớn không thể thực hiện được bởi những lý do sau:
+ Ngày 08-5-2009 trưởng Ban Kiểm tra kiểm soát nội bộ ký T/L Tổng Giám đốc tại Văn bản số 2039/NHN0-KTTK của NHN0 & PTNT Việt Nam có yêu cầu Chi Nhánh NHN0 & PTNT Chợ Lớn chờ ý kiến chỉ đạo của Tổng Giám đốc NHN0 & PTNT Việt Nam mới được thực hiện và ngày 26-5-2009 NHN0 & PTNT Việt Nam có văn bản số 2367/NHN0-TDDN gửi Vụ tín dụng Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam đề nghị giải thích nội dung này và ngày 02-7-2010 NHN0 & PTNT Việt Nam có văn bản số 3225/NHN0-KTNB gửi Thống đốc NHNN Việt Nam về việc giải trình và đề nghị xem xét Kết luận Thanh tra số 40/KL-TTR2.m ngày 15-4-2009 của Thanh tra Ngân hàng Nhà Nước, do vậy Chi nhánh phải chờ Văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của NHNN và NHN0 & PTNT Việt Nam mới có căn cứ để thực hiện.
+ Ngày 12-6-2007 Dự án Cụm công nghiệp và dân cư tại xã Đông Thạnh, huyện Hóc Môn do Cty Thành Phát làm chủ đầu tư được UBND TP.HCM có văn bản số 3508/UBND-ĐT chuyển đổi chủ đầu tư, giao cho Cty XD&TM 12 làm chủ đầu tư và tiếp tục thực hiện dự án như lập báo cáo đánh giá tác động môi trường, hoàn chỉnh việc bồi thường tái định cư, lập thủ tục thu hồi, giao đất để thực hiện dự án.
+ Thực hiện việc chuyển đổi chủ đầu tư, Cty 12 nhận lại dự án của Cty Thành Phát và đề nghị NH. Chợ Lớn tiếp tục tài trợ dự án. Ngày 18-6-2007, Chi nhánh thu nợ của Cty Thành Phát do dự án đã chuyển cho Cty 12 tiếp tục đầu tư. Từ ngày thu hết nợ (18-6-2007) đến ngày kết luận thanh tra có hiệu lực (15-4-2009) là 22 tháng, tài sản dự án, công nợ đã có nhiều thay đổi sau khi chủ đầu tư mới nhận lại dự án nên việc phục hồi lại nợ vay là khó khăn. Hơn nữa, việc phục hồi lại nợ không thể thực hiện được vì theo quyết định của cơ quan Nhà Nước có thẩm quyền, Cty Thành Phát không được tiếp tục làm chủ đầu tư dự án.
+ Tại thời điểm kết luận thanh tra có hiệu lực (15-4-2009), người đại diện theo pháp luật của Cty Thành Phát và thành viên thứ 2 của Cty (Cty TNHH 2 thành viên) đang bị tạm giữ để điều tra vụ án do đó việc phục hồi lại nợ đối với Cty không thể thực hiện được.
Việc cho vay đối với Cty Thương mại 12 của ngân hàng là đảm bảo, phù hợp với quy định của NHNN và NHN0 & PTNT Việt Nam.
Theo quy định của Luật Thanh tra, trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày có kết luận thanh tra, thủ trưởng cơ quan quản lý Nhà nước cùng
Rõ ràng, kết luận số 40/KL-TTR2.m ngày 15-4-2009 của Thanh tra NH Nhà nước về việc phục hồi nợ của Cty Thành Phát chẳng những vi phạm Luật Thanh tra, Bộ Luật tố tụng Hình sự như đã phân tích trên, mà còn không phù hợp thực tế nên đến nay không thể thực hiện được. Sự thực đến thời điểm 18-6-2007 Cty Thành Phát không còn nợ ngân hàng nên việc quy kết của cáo trạng là hoàn toàn không có căn cứ.
cấp có trách nhiệm xem xét kết luận thanh tra: xử lý đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân có vi phạm pháp luật; áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền (Điều 44 và Điều 52). Thế nhưng đến nay đã 19 tháng, kết luận của Thanh tra NH Nhà nước Việt Nam không thể nào thực hiện được! 3/- Về việc chuyển giao dự án cho Cty TNHH XD&TM 12
Theo Luật Đất đai, Điều 38 – các trường hợp thu hồi đất- tại khoản 12 quy định: “Đất được Nhà Nước giao, cho thuê để thực hiện dự án đầu tư mà không được sử dụng trong thời hạn 12 tháng liền, hoặc tiến độ sử dụng đất chậm hơn 24 tháng”.
Đối chiếu với quy định này, dự án của Cty Thành Phát cũng không thuộc trường hợp bị thu hồi. Sở Tài nguyên Môi trường, Sở Quy hoạch kiến trúc, Sở Xây dựng, UBND huyện Hóc Môn không hề có văn bản đề nghị thu hồi. Tuy nhiên, theo kiến nghị của CQĐT, ngày 15-12-2006 UBND TP.HCM lại ra Quyết định số 5796/QĐ-UBND thu hồi toàn bộ diện tích đất dự án đã đầu tư của Cty Thành Phát. Nếu cho rằng việc thu hồi này là cần thiết đi nữa, thì tại khoản 4 Điều 43 Luật Đất đai có quy định: Chính phủ quy định việc xử lý đối với tiền sử dụng đất, tài sản đã đầu tư trên đất trong trường hợp thu hồi đất tại khoản 12 Điều 38 Bộ Luật này. Nghị định số 181/2006/NĐ-CP ngày 29-10-2004 của Chính phủ, về thi hành Luật Đất đai, tại Điều 35 về xử lý tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, tài sản đã đầu tư trên đất trong trường hợp thu hồi đất theo quy định tại Điều 38 Luật Đất đai quy định:
+ Khoản 1: UBND có thẩm quyền thu hồi đất thành lập Hội đồng định giá để xác định giá trị còn lại của tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, tài sản đã đầu tư trên đất đối với trường hợp tiền sử dụng đất, tiền đầu tư trên đất không có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước, giá trị còn lại đó thuộc sở hữu người bị thu hồi đất.
+ Khoản 2: Phần giá trị còn lại của tiền sử dụng đất, tài sản đã đầu tư trên đất thuộc sở hữu của người bị thu hồi đất được giải quyết theo quy định sau:
Điểm a: Trường hợp đất bị thu hồi thuộc khu vực đô thị hoặc khu vực quy hoạch phát triển đô thị mà giao cho tổ chức phát triển quỹ đất thì tổ chức phát triển quỹ đất có trách nhiệm trả cho người bị thu hồi đất; ở những nơi chưa có tổ chức phát triển quỹ đất thì do ngân sách của cấp quản lý đất sau khi thu hồi trả cho người bị thu hồi đất.
Điểm c: Trường hợp đất bị thu hồi được Nhà nước giao cho người khác, thì người được giao đất có trách nhiệm trả cho người bị thu hồi đất.
+ Khoản 5: Trường hợp thu hồi đất mà người bị thu hồi đất đã thế chấp bằng QSDĐ thì quyền lợi của người nhận thế chấp được giải quyết theo Điều 65 Nghị định này.
Điều 65 quy định về xử lý quyền sử dụng đất đang thế chấp khi Nhà Nước thu hồi đất như sau:
+ Khoản 3: Đất đang thế chấp mà thuộc trường hợp bị thu hồi theo quy định tại Điều 38 Luật Đất đai thì Nhà nước thu hồi đất; Hợp đồng thế chấp bị chấm dứt. Bên thế chấp phải hoàn trả khoản vay cho bên nhận thế chấp theo quy định của pháp luật về dân sự (điểm a).
Căn cứ các quy định trên đây, để giải quyết hậu quả của Quyết định thu hồi đất số 5796/QĐ-UBND ngày 15-12-2006, chỉ có 2 giải pháp:
– UBND TP.HCM xuất tiền ngân sách Nhà nước trả lại cho Cty Thành Phát để Cty Thành Phát trả nợ vay ngân hàng. Giải pháp này không thể thực hiện được vì đây là đất dự án do Cty Thành Phát chuyển nhượng lại của dân.
– Giao lại cho đơn vị khác tiếp tục đầu tư, đơn vị này có trách nhiệm hoàn trả lại giá trị đầu tư cho Cty Thành Phát, để Cty Thành Phát trả nợ ngân hàng. Đây là giải pháp duy nhất và trình tự thủ tục để UBND TP chuyển giao dự án cho Cty TNHH XD&TM 12 đã được thực hiện như sau:
* Ngày 17-01-2007, Cty TNHH XD&TM 12 có tờ trình số 25/TT-CT xin được nhận 2 dự án của Cty TNHH Thành Phát và cam kết có trách nhiệm nhận nợ hoặc thanh toán cho ngân hàng đối với khoản nợ mà Cty Thành Phát còn nợ Chi nhánh NHNN & PTNT Chợ Lớn.
* Ngày 13-02-2007 NHNN Việt Nam-Chi nhánh TP.HCM có văn bản số 207/NHNN-HCM08 đề nghị UBND TP.HCM chuyển giao dự án cho doanh nghiệp có đủ uy tín, có khả năng tài chính để tiếp tục thực hiện dự án hoàn trả vốn ngân hàng.
* Ngày 12-3-2007, UBND TP.HCM có văn bản số 1419//UBND-ĐT về dự án Cụm công nghiệp và dân cư của Cty TNHH XDTMKD nhà Thành Phát tại huyện Hóc Môn, nội dung như sau: “Giao Sở KHĐT chủ trì phối hợp với Sở TNMT làm việc với Cty TNHH XD&TM 12 và các đơn vị có liên quan, yêu cầu Cty có văn thực hiện nhanh dự án theo quy hoạch được duyệt, xem xét thẩm định năng lực tài chính, năng lực thực hiện dự án, đảm bảo tiến độ đầu tư theo quy định để đề xuất, trình UBND xem xét, thời gian thực hiện trong 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận được công văn này.”
* Ngày 21-5-2007, Sở KHĐT có văn bản số 2724/SKHĐT-KT gởi UBND TP HCM với ý kiến đề xuất như sau:
“+Về sự cần thiết thay đổi chủ đầu tư của dự án: do Công ty Thành Phát vi phạm pháp luật, kéo dài thời gian thực hiện dự án dẫn đến cấp thẩm quyền hủy bỏ các quyết định giao đất cho Công ty Thành Phát và chuyển đổi chủ đầu tư mới cho dự án là cần thiết.
+ Về năng lực tài chính và tư cách pháp nhân của chủ đầu tư:
-> Công ty TNHH XDTM 12 đã được Ngân hàng NNPTNT-Chi nhánh Chợ Lớn có chứng thư số 937/NHN0CL ngày 04-4-2007 chấp thuận đầu tư tài chính để thực hiện dự án Cụm công nghiệp và dân cư tại xã Đông Thạnh, huyện Hóc Môn theo 2 giai đoạn.
-> Chủ đầu tư đã có cam kết thực hiện nhanh dự án và đầu tư xây dựng theo đúng quy hoạch được phê duyệt.
+ Về thẩm quyền quyết định đầu tư dự án: dự án do chủ đầu tư tự quyết định và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật theo quy định hiện hành (do dự án không sử dụng vốn ngân sách Nhà nước).
Từ các phân tích trên, về cơ bản Cty TNHH XD&TM 12 có đủ năng lực tài chính thực hiện dự án cụm công nghiệp và dân cư tại xã Đông Thạnh huyện Hóc Môn. Sở KH&ĐT kiến nghị UBND TP.HCM chấp thuận chủ trương giao cho Công TNHH XD&TM 12 làm chủ đầu tư dự án cụm công nghiệp và dân cư tại xã Đông Thạnh, huyện Hóc Môn.”
* Ngày 12-6-2007, UBND TP.HCM ban hành văn bản số 3508/UBND-ĐT chấp thuận đề xuất của Sở KH&ĐT tại công văn 2724/SKHĐT-KT nêu trên về giao cho Cty TNHH XD&TM 12 làm chủ đầu tư dự án thay cho Cty TNHH XDTMKD nhà Thành Phát.
* Từ các căn cứ nêu trên, ngày 15-6-2007 Ngân hàng NN&PTNT Chi nhánh Chợ Lớn ký các Hợp đồng tín dụng, hợp đồng cầm cố thế chấp tài sản hình thành từ vốn vay cho Cty TNHH XD&TM 12 vay để trả nợ thay cho Cty TNHH Thành Phát và tiếp tục đầu tư 2 dự án nói trên. Việc làm này là cần thiết, nhằm khắc phục hậu quả của Quyết định thu hồi đất số 5796/QĐ-UBND ngày 15-12-2006 của UBND TP.HCM, hoàn toàn phù hợp quy định của pháp luật về đất đai – đầu tư – dân sự; ý kiến của Ngân hàng NN Chi nhánh TP.HCM tại văn bản số 207/NHNN-HCM-08 ngày 13-02-2007 (đề nghị chuyển giao dự án cho doanh nghiệp khác tiếp tục thực hiện để hoàn trả vốn cho ngân hàng) và chủ trương của UBND TP.HCM tại văn bản số 1419/UBND-ĐT ngày 12-3-2007 ghi rõ: “Xét… văn bản số 819/NHN0CL-TP ngày 20-01-2007 của Chi nhánh Ngân hàng NN&PTNT Chợ Lớn về chuyển giao dự án của Cty TNHH Thành Phát cho Cty TNHH XD&TM 12 thực hiện; đề nghị của Cty TNHH XD&TM 12 về xin nhận thực hiện dự án của Cty TNHH Thành Phát tại văn bản số 25/TT-CT ngày 17-01-2007.”
4/-Về giá trị tài sản thế chấp
Quyết định trưng cầu giám định bổ sung số 133-33/QĐ-PC15(Đ8) ngày 18-01-2010 của Cơ quan CSĐT, trưng cầu Chi nhánh Miền Nam-Cty CP. Định giá và Dịch vụ tài chính VN giám định diện tích 79.652m2 đất theo 33 Giấy CNQSDĐ của các hộ dân có giá trị là bao nhiêu tiền theo giá thị trường. Loại đất theo 33 Giấy CNQSD đất này là đất nông nghiệp trồng cây hàng năm.
Trong khi đó, toàn bộ diện tích đất này đã không còn là đất nông nghiệp của các hộ dân, vì đã được chuyển nhượng cho Cty Thành Phát, Cty Thành Phát đã đền bù giải tỏa, nộp thuế chuyển QSDĐ, tiền chuyển mục đích sử dụng đất… đã được UBND TP.HCM có Quyết định cho phép chuyển mục đích sử dụng đất để thực hiện dự án xây dựng khu dân cư và cụm công nghiệp, đã được phê duyệt quy hoạch chi tiết 1/500.
Luật Đất đai năm 2003 quy định:
– Căn cứ để xác định loại đất trên thực địa: Việc xác định loại đất trên thực địa căn cứ theo Quyết định giao đất, , cho phép chuyển mục đích sử dụng đất của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (khoản 2 Điều 14).
– Khi chuyển mục đích sử dụng đất thì chế độ sử dụng đất, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất đất được áp dụng theo loại đất sau khi chuyển mục đích sử dụng đất (khoản 3 Điều 36).
Nghị định số 16/205/NĐ-CP ngày 07-02-2005 của Chính phủ, về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình, tại Điều 17 khoản 1 điểm c quy định: trước khi khởi công xây dựng công trình, chủ đầu tư phải có , trừ trường hợp công trình xây dựng thuộc dự án khu đô thị, khu công nghiệp, khu nhà ở có quy hoạch chi tiết xây dựng tỉ lệ 1/500 đã được cơ quan Nhà Nước có thẩm quyền phê duyệt.
Căn cứ các quy định nói trên, đất của 2 dự án của Cty Thành Phát đã là đất xây dựng, Cty Thành Phát có thể khởi công xây dựng công trình trước khi được . Do đó, Quyết định trưng cầu giám định bổ sung và kết quả định giá 56.251.198.000 đồng theo báo cáo định giá số 17/10/CT-ĐG-MN ngày 27-01-2010 của Cty CP Định giá & Dịch vụ tài chính Việt Nam-Chi nhánh Miền Nam là không phù hợp pháp luật và thực tế nên không có giá trị pháp lý.
Tại văn bản số 240/NHN0CL-KTKSNB ngày 11-5-2010, trả lời đề nghị của VPLS chúng tôi, Giám đốc Ngân hàng NN&PTNT Chi nhánh Chợ Lớn đã xác nhận: “Thực hiện chỉ đạo của Thanh tra, Giám sát NH Nhà nước Việt Nam, Chi nhánh NH NN&PTNT Chợ Lớn đã ký hợp đồng thẩm định giá số 571A/2009/HĐDV-DCSC92) ngày 24-8-2009 với Cty CP Tư vấn dịch vụ về tài sản-bất động sản DATC, và đã có chứng thư kết quả thẩm định giá số 833/CT-DSCS(2) ngày 07/10/2009, theo kết quả thẩm định giá thì giá trị tài sản của dự án này là đủ đảm bảo số nợ của ngân hàng.” Theo chứng thư kết quả thẩm định giá nói trên thì “Tổng giá trị quyền sử dụng đất của Dự án khu công nghiệp sạch xen cài dân cư tại ấp 6 xã Đông Thạnh huyện Hóc Môn TP.HCM tại thời điểm thẩm định giá (làm tròn số) là 225.850.000.000 đồng”.
III/- KIẾN NGHỊ
Từ những phân tích trên cho thấy Trần Văn Tuyến không vi phạm các quy định về cho vay trong hoạt động của tổ chức tín dụng,
Cty Thành Phát đã không còn nợ Ngân hàng NN&PTNT Chi Nhánh Chợ Lớn từ 18-6-2007, NH không bị thiệt hại gì trong việc cho Cty Thành Phát vay để đầu tư vào 02 dự án. Điều này cũng đã được đại diện Ngân hàng NN&PTNT xác nhận bằng văn bản và tại phiên tòa. CQĐT khởi tố và VKS truy tố Trần Văn Tuyến là căn cứ Quyết định thu hồi đất số 5796/QĐ-UBND ngày 15-12-2006 của UBND TP.HCM và kết luận thanh tra số 40/KL-TTR2.m ngày 15-4-2009 của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước Việt Nam kiến nghị phục hồi nợ của Cty Thành Phát. Bản thân kiến nghị này của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước mâu thuẫn với Quyết định của UBND TP.HCM, không phù hợp quy định pháp luật và thực tế không thể nào thực hiện được. Hậu quả của quyết định thu hồi đất số 5796/QĐ-UBND ngày 15-12-2006 của UBND TP.HCM đã được khắc phục. Do đó, không có căn cứ để qui kết Trần Văn Tuyến phạm tội.
Vì vậy, căn cứ khoản 2 Điều 107, khoản 1 Điều 227 Bộ Luật tố tụng Hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố Trần Văn Tuyến không phạm tội và trả tự do cho bị cáo ngay tại phiên tòa.
Trân trọng cảm ơn Quý Tòa, Quý Viện.
Người bào chữa
Luật sư XXX
(VPLS Luật sư YYY)

Bộ phận hình sự – Minh Khuê (biên tập)

Nếu bạn cần thêm thông tin xin đặt câu hỏi vào ô hỏi đáp bên dưới để chúng tôi có thể hỗ trợ cho bạn nhiều hơn. Xin chân thành cảm ơn.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *