Phân tích quy định của luật sở hữu trí tuệ năm 2005 sửa đổi bổ sung năm 2009 về quyền tác giả ?

Xin chào bạn đến với chuyên trang tư vấn dịch vụ pháp luật. Sau đây là một số nội dung chỉ mang tính chất tham khảo. các bạn có thể đọc để hiểu thêm nhé.

Thưa luật sư, nhờ luật sư giam đáp giúp: phân tích quy định của luật sở hữu trí tuệ năm 2005 sửa đổi bổ sung năm 2009 vê quyền tác giả ? Luật sự có thể làm rõ vấn đề và giải thích rõ các khái niệm . Cảm ơn luật sư.

Mục lục bài viết

1. Phân tích quy định của luật sở hữu trí tuệ về quyền tác giả ?

Thưa luật sư, nhờ luật sư giam đáp giúp: phân tích quy định của luật sở hữu trí tuệ năm 2005 sửa đổi bổ sung năm 2009 vê quyền tác giả ? Luật sự có thể làm rõ vấn đề và giải thích rõ các khái niệm ?

Cảm ơn luật sư.

Luật sư tư vấn:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư của Công ty Xin giấy phép. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

Quyền tác giả được hiểu là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do chính mình sáng tạo ra hoặc sở hữu ( K2 – Đ4 )

Nói đến quyền tác giả có những nội dung cơ bản sau :

Đầu tiên là về tác phẩm được bảo hộ. Theo quy định tại khoản 1 – Điều 14 thì tác phẩm được bảo hộ thuộc lĩnh vực : văn học, nghệ thuật và khoa học. Cụ thể gồm các loại hình như sau : văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm khác thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc kí tự khác, bài phát biểu, bài giảng, tác phẩm sân khấu, điện ảnh và tác phẩm được tạo ra theo phương pháp tương tự tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, âm nhạc, tạo hình, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm kiến trúc, tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian, chương trình máy tính.

Các tác phẩm phái cũng được bảo hộ theo quy định tại k2 của điều này tuy nhiên là nó chỉ được bảo hộ khi không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng làm tác phẩm phái sinh. Điều kiện là chỉ những tác phẩm do chính tác giả trực tiếp sáng tạo, không sao chép từ tác phẩm khác mới được bảo hộ.

Các tin tức thời sự chỉ mang tính chất thông tin không có tính sáng tạo, vì vậy không được bảo hộ. Văn bản quy phạm pháp luật, văn bản của các cơ quan hành chính, thuộc lĩnh vực tư pháp và bản dịch chính thức của nó, và các khái niệm, nguyên lí, số liệu cũng không thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả.

Thứ hai là vấn đề tác giả của tác phẩm.

Tác giả được hiểu là những người bằng lao động trí tuệ của mình, trực tiếp sáng tạo ra một phần hoặc toàn bộ tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học thể hiện dưới dạng vật chất nhất định.

Những người làm các công việc dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, phóng tác, cải biên, chuyển thể, biên soạn, chú giải, tuyển chọn cũng được coi là tác giả của tác phẩm phái sinh này.

Trong trường hợp có từ hai người trở lên cùng trực tiếp tham gia sáng tạo tác phẩm thì họ là đồng tác giả của tác phẩm.

Điều kiện để tác giả được bảo hộ gồm có :

+ Tác giả phải là công dân Việt Nam hoặc người nước ngoài nhưng tác phẩm được tạo ra và công bố đầu tiên tại Việt Nam hoặc tại các nước nằm thuộc danh sách điều ước quốc tế về quyền tác giả mà có Việt Nam tham gia.

+ Tác giả là người trực tiếp sáng tác ra tác phẩm bằng tư duy và trí óc của chính mình. Tác phẩm phải được thể hiện dưới dạng vật chất như trên giấy, phim, ảnh…

Với khái niệm trên, chỉ những người trực tiếp làm ra tác phẩm thông qua hoạt động của tư duy sáng tạo mới được coi là tác giả. Những người cung cấp tư liệu, góp ý kiến cho việc sáng tạo, làm phản biện, hướng dẫn khoa học không thể là tác giả của tác phẩm. Kết quả của lao động do tư duy sáng tạo mang lại phải định hình dưới dạng vật chất nhất định (trên giấy, phim nhựa, băng đĩa từ, băng đĩa lade, gỗ, kim loại hoặc bất kì loại hình vật chất nào đã có và sẽ có trong tương lai). Điều đó có nghĩa quyền tác giả không phát sinh đối với những ý tưởng sáng tạo, pháp luật không bảo hộ ý tưởng. Pháp luật chỉ bảo hộ những ý tưởng về văn học, nghệ thuật và khoa học đã được hình thành bằng tác phẩm và định hình ở bất kì dạng vật chất nào.

Thứ ba là về các quyền của tác giả

a. Quyền nhân thân ( Đ19 )

– Quyền đặt tên là một trong những quyền quan trọng vì đây là quyền để ra đời đứa con tinh thần của chính mình

– Quyền đứng tên khi tác phẩm của chính mình được công bố, sử dụng. Có thể chọn sử dụng tên thật, bút danh hoặc để tác phẩm trong tình trạng “ khuyết danh”.

– Quyền công bố tác phẩm của chính mình hoặc cho phép người khác công bố hộ. Việc công bố hay chưa công bố hoàn toàn phụ thuộc vào ý muốn của tác giả.

– Quyền bảo vệ toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác có quyền sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dù bất cứ hình thức nào nhằm gây phương hại đến danh dự cũng như uy tín của tác giả.

b. Quyền tài sản ( Đ 20 ) bao gồm các quyền sau đây

+ Quyền làm tác phẩm phái sinh:

Làm tác phẩm phái sinh là quyền do tác giả tự thực hiện hoặc cho phép người khác sử dụng tác phẩm của mình để sáng tạo ra tác phẩm mới. Tác phẩm mới này được gọi là tác phẩm phái sinh, như tác phẩm dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, tác phẩm chuyển thể, cải biên, phóng tác, phiên âm, chú giải.

Người làm tác phẩm phái sinh chỉ có quyền tác giả khi không gây phương hại tới quyền tác giả của tác phẩm được sử dụng để sáng tạo ra tác phẩm phái sinh. Điều này có nghĩa, phải có sự thỏa thuận trước khi sử dụng để sáng tạo tác phẩm phái sinh.

Cải biên là việc sáng tạo ra tác phẩm mới, từ tác phẩm đã có bằng việc tạo thêm những yếu tố ngôn từ sáng tạo mới. Phóng tác có nghĩa là việc thay đổi hình thức thể hiện của tác phẩm, chẳng hạn như chuyển đổi tác phẩm nhiếp ảnh thành tác phẩm hội họa, hoặc tác phẩm điêu khắc. Chuyển thể là việc thay đổi hình thức thể hiện của tác phẩm đã có nhưng vẫn giữ nội dung tác phẩm được sử dụng để thực hiện việc chuyển thể. Chẳng hạn như chuyển thể tác phẩm văn học thành tác phẩm điện ảnh.

+ Quyền biểu diễn tác phẩm trước công chúng, đây chính là quyền biểu diễn ở bất cứ địa điểm hay thời gian nào với 1 số lượng công chúng lơn chứ không phải chỉ gói gọn trong phạm vi như gia đình. Đặc biệt là nó còn bao gồm cả các cuộc biểu diễn gián tiếp như ghi âm, ghi hình…

+ Quyền sao chép được coi là một trong những quyền quan trọng của quyền tác giả. Việc ghi âm, ghi hình bài giảng, bài phát biểu, bài thuyết trình, việc vẽ lại tranh là hình thức sao chép thuộc quyền sao chép tác phẩm. Còn việc sao chép một phần hay toàn bộ tác phẩm phải được sự đồng ý của tác giả, không phân biệt hình thức, phương tiện được sử dụng để sao chép, kể cả sao chép điện tử.

+ Quyền phân phối, nhập khẩu bản gốc bản sao tác phẩm

Quyền phân phối bản gốc, bản sao tác phẩm do chủ sở hữu thực hiện hoặc cho người khác thực hiện bằng việc sử dụng bất kì hình thức, phương tiện kĩ thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được để bán, cho thuê hoặc các hình thức chuyển nhượng khác. Đối với tác phẩm tạo hình, tác phẩm nhiếp ảnh thì quyền phân phối còn bao gồm cả việc trưng bày, triển lãm trước công chúng.

+ Quyền truyền đạt tác phẩm

Là quyền đưa tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kì phương tiện kĩ thuật nào để công chúng có thể tiếp cận được tại bất kì địa điểm và thời gian nào do họ lựa chọn.

+ Quyền cho thuê tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính

Quyền cho thuê tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính là quyền độc quyền của chủ sở hữu. Nó là việc cho thuê để sử dụng có thời hạn, do chủ sở hữu quyền tác giả và bên sử dụng thỏa thuận theo hợp đồng.

Các quyền tài sản và quyền nhân thân của tác giả nêu trên tự động phát sinh ngay sau khi tác phẩm được hình thành dưới dạng vật chất nhất định. Các tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tác phẩm phải thực hiện nghĩa vụ pháp lí với tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả. Chủ sở hữu quyền tác giả được hưởng tiền nhuận bút, thù lao và lợi ích vật chất khác từ việc cho phép tổ chức, cá nhân khác khai thác, sử dụng tác phẩm.

Thứ tư là về thời hạn bảo hộ quyền tác giả

Thời hạn bảo hộ quyền tác giả được quy định cụ thể tại điều 27 của Luật này. Cụ thể như sau :

1. Quyền nhân thân quy định tại các khoản 1, 2 và 4 Điều 19 của Luật này được bảo hộ vô thời hạn.

2. Quyền nhân thân quy định tại khoản 3 Điều 19 và quyền tài sản quy định tại Điều 20 của Luật này có thời hạn bảo hộ như sau:

a) Tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, sân khấu, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh có thời hạn bảo hộ là năm mươi năm, kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên. Trong thời hạn năm mươi năm, kể từ khi tác phẩm điện ảnh, tác phẩm sân khấu được định hình, nếu tác phẩm chưa được công bố thì thời hạn được tính từ khi tác phẩm được định hình; đối với tác phẩm khuyết danh, khi các thông tin về tác giả được xuất hiện thì thời hạn bảo hộ được tính theo quy định tại điểm b khoản này;

b) Tác phẩm không thuộc loại hình quy định tại điểm a khoản này có thời hạn bảo hộ là suốt cuộc đời tác giả và năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết; trong trường hợp tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ năm mươi sau năm đồng tác giả cuối cùng chết;

c) Thời hạn bảo hộ quy định tại điểm a và điểm b khoản này chấm dứt vào thời điểm 24 giờ ngày 31 tháng 12 của năm chấm dứt thời hạn bảo hộ quyền tác giả. “

Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại, gọi ngay số: để được giải đáp.

Trân trọng./.

2. Vấn đề tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả

Về tổ chức quản lý tập thể và việc hình thành hệ thống quản lý tập thể quyền tác giả, quyền liên quan là vấn đề còn mới mẻ và phức tạp đối với Việt Nam. Chúng ta đã từng bước hình thành được hệ thống thực thi tự bảo vệ quyền. Hoạt động của các tổ chức quản lý tập thể đang vượt qua nhiều thử thách, đồng thời cũng tranh thủ cơ hội để vươn lên khẳng định mình. Bài viết này góp phần lý giải căn nguyên, chiều hướng phát triển, vai trò và tính chất của tổ chức quản lý tập thể.

Nguồn gốc và sự phát triển:

Trên khắp thế giới, quyền của những người sáng tạo được công nhận là quyền cá nhân quy định tại Điều 27 Tuyên ngôn nhân quyền, ngày 10/12/1948. Theo Công ước Berne thì nó là các quyền độc quyền của tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học.

Hệ thống luật với bước phát triển đầu tiên về bản quyền bắt nguồn từ phán quyết của Toà án Anh Quốc, về đặc quyền in ấn. Năm 1710, Nữ hoàng Anh Anne đã tạo ra bước ngoặt cơ bản ở việc trao quyền in ấn tác phẩm cho tác giả của nó. Cùng với hệ thống luật án lệ, hệ thống luật thành văn với nhiều xuất xứ, nhưng mốc lịch sử quan trọng nhất nảy sinh ra vấn đề bản quyền bắt nguồn từ cuộc cách mạng Pháp năm 1789. Với cách tiếp cận từ các quyền tự nhiên, quyền đối với tác phẩm được coi là loại quyền “đặc biệt” của các cá nhân là tác giả của tác phẩm, được sáng tạo từ lao động của tư duy. Nó là quyền sở hữu riêng tư và thiêng liêng đối với tác phẩm.

Ngày nay, trên khắp thế giới, các quyền của những người sáng tạo như nhà văn, nhạc sĩ, nghệ sĩ đã được luật pháp quốc gia bảo hộ. Để điều chỉnh mối quan hệ toàn cầu về lĩnh vực này, Công ước Berne đã được công bố vào năm 1886, hiện có 162 quốc gia thành viên. Với các nội dung cơ bản về quyền tinh thần và quyền kinh tế, luật pháp quốc gia và luật pháp quốc tế đã có sự đồng nhất. Trong đó các quyền kinh tế là quyền độc quyền của tác giả. Tác giả tự mình thực hiện hoặc cho phép người khác sử dụng một, một số hoặc toàn bộ các quyền trong một thời hạn; chuyển giao quyền sở hữu một, một số hoặc toàn bộ các quyền tài sản cho người khác.

>>

Các quyền của tác giả được pháp luật thừa nhận, mỗi cá nhân tác giả phải tự quản lý lấy các quyền của mình; khai thác nó để đạt được các lợi ích kinh tế, bù đắp các tiêu hao trong quá trình sáng tạo, đồng thời tiếp tục đầu tư cho hoạt động sáng tạo ra các giá trị văn học, nghệ thuật và khoa học mới phục vụ nhu cầu đa dạng, phong phú của xã hội loài người.

Tuy nhiên lịch sử đã tìm ra “lối đi” cho việc quản lý quyền. Điều này được xác nhận từ kinh nghiệm lịch sử, kể cả trong điều kiện các sáng tạo là sản phẩm đa phương tiện, cùng những tiến bộ mới đang được áp dụng rộng rãi là công nghệ số. Thay vì tác giả tự quản lý quyền của mình – quản lý cá nhân – trong nhiều trường hợp là không hiệu quả bằng quản lý tập thể. Nhu cầu nhanh chóng tiếp cận tác phẩm để sử dụng, nhu cầu sử dụng tác phẩm ở nhiều hình thức khác nhau là đòi hỏi thực tế. Trong khi việc tiếp cận với tác giả không phải là bất kỳ thời gian và địa điểm nào. Mặt khác với tư cách là người sáng tạo, tác giả cần ưu tiên đầu tư thời gian vật chất, kể cả địa điểm thuận lợi cho lao động tư duy của mình. Vì vậy, sự khai thông và thay thế cho quản lý cá nhân bằng quản lý tập thể là cách thức thoả đáng. Sự xuất hiện của giải pháp có lợi cho cả người sáng tạo và nhà sử dụng, cũng như nhu cầu của công chúng về việc được hưởng thụ sớm các tác phẩm là lời giải của những mâu thuẫn. “Quản lý tập thể” là kinh nghiệm lịch sử của nhân loại, bắt nguồn từ các nước phát triển, đã mở đường để đạt được sự hài hoà về lợi ích trong quan hệ giữa Người sáng tạo – Nhà sử dụng – Công chúng hưởng thụ.

SACD là Tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả đầu tiên được ra đời vào năm 1777 tại Pháp, sau các “trận chiến pháp lý” chống lại các Nhà hát. Hơn 50 năm sau, các nhà văn trong đó có Honoro De Balzac, Alexandre Dumas, Victor Hugo cũng làm những việc tương tự và đi đến thành lập SGDL vào năm 1837. Tuy nhiên chỉ đến khi một vụ kiện của các nhà soạn nhạc và một số nhà văn vào 1847, về việc hoà nhạc tại quán cà phê ở Paris không trả tiền sử dụng, trong khi vẫn thu tiền bán cà phê, đó là một sự bất hợp lý rõ ràng. Họ đưa ra quyết định không trả tiền cà phê khi không được thanh toán tiền sử dụng âm nhạc. Kết quả, các nhạc sĩ và nhà văn đã thắng lợi. Từ đó, người ta nhận thức ra rằng, bản thân các cá nhân không thể kiểm soát đước các quyền của mình. Vì vậy, đã dẫn đến việc ra đời tổ chức tập thể và hoàn thiện hơn vào năm 1850 với tên gọi là SACEM. Đến cuối thế kỷ XIX và những thập niên đầu thế kỷ XX, các tổ chức tương tự được ra đời như CISAC, IFRRO, FICM, FIA, AIDAA , v.v… Tại các quốc gia cũng hình thành các tổ chức quản lý tập thể có lịch sử lâu đời và tên tuổi như GEMA của Đức, ASCAP của Mỹ, PRS của Anh, SUSA của Thuỵ Sỹ, v.v… Theo kinh nghiệm đó, tại Việt Nam VPCMC, VLCC, RIAV đã được nhà nước cho phép ra đời và hoạt động vào những năm đầu của thế kỷ XXI.

Tổ chức và hoạt động:

Kinh nghiệm của các quốc gia khẳng định rằng, tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả, quyền liên quan có vị trí quan trọng trong hệ thống thực thi và có vai trò đặc biệt trong hoạt động tự bảo vệ quyền lợi của các chủ thể quyền. Nó là tổ chức phi Chính phủ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các Hội viên, hoạt động không vì mục đích sinh lợi. Thông qua hợp đồng uỷ thác của những người có quyền, tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả, quyền liên quan thực hiện các hoạt động cấp giấy phép sử dụng, khai thác tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, chương trình phát sóng, thu tiền sử dụng và phân phối cho những người có quyền lợi theo quy định của pháp luật và Điều lệ của tổ chức. Với hoạt động đó, tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả, quyền liên quan là cầu nối giữa các nhà sáng tạo là Hội viên với các tổ chức, cá nhân sử dụng tác phẩm; tạo thuận lợi cho việc sử dụng, khai thác có hiệu quả các quyền của Hội viên.

Theo tổng kết của tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới, hiện có một số mô hình tổ chức quản lý tập thể tại các quốc gia. Mô hình các tổ chức quản lý tập thể “truyền thống”, hoạt động theo nguyên tắc thay mặt các thành viên đã uỷ thác quyền thực hiện đàm phán, thoả thuận về điều kiện sử dụng và cấp phép sử dụng tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, chương trình phát sóng; thu tiền sử dụng và phân phối lại cho các thành viên. Theo mô hình này, các thành viên không trực tiếp tham gia vào quá trình đàm phán, thu và phân phối tiền sử dụng, nhưng được hưởng lợi từ việc phân phối lại của tổ chức quản lý tập thể. Mô hình tổ chức quản lý tập thể là trung tâm cấp phép sử dụng. Theo mô hình này, việc đàm phán cấp phép phải tuân thủ theo điều kiện do hội viên quy định, kể cả mức tiền sử dụng. Khác với mô hình truyền thống, hội viên thuộc mô hình này vẫn tham gia vào việc đưa ra các điều kiện sử dụng tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, chương trình phát sóng của mình trong quá trình đàm phán. Tổ chức đại diện tập thể loại này đóng vai trò là đại lý cho các chủ sở hữu là hội viên. Mô hình tổ chức quản lý tậpthể “một cửa” là một loại liên hiệp các tổ chức quản lý tập thể riêng rẽ. Mô hình này tập trung việc cấp phép sử dụng từ các nguồn dữ liệu về tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, chương trình phát sóng của các tổ chứa quản lý tập thể khác nhau. Nó tỏ ra ưu việt hơn, vì hoạt động cấp phép tập trung vào một đầu mối, công việc sẽ thuận lợi, nhanh chóng và dễ dàng cho bên sử dụng. Mặt khác, nó còn đáp ứng yêu cầu mới về việc ngày càng có nhiều sản phẩm đa phương tiện được sáng tạo, bao gồm những sản phẩm có hoặc do nhiều tác phẩm tạo thành. Khuynh hướng lập ra các tổ chức quản lý tập thể theo mô hình này hiện đang phát triển tại các quốc gia, Việt Nam cần quan tâm nghiên cứu, thử nghiệm.

Biểu giá để đàm phàn với các tổ chức, cá nhân sử dụng do các tổ chức quản lý tập thể xây dựng phù hợp với các hình thức sử dụng khác nhau và điều kiện tính kinh tế, văn hoá, xã hội. Mỗi quốc gia có cách quản lý khác nhau về biểu giá. Có quốc gia, Nhà nước không can thiệp vào biểu giá, tức việc xây dựng và đưa biểu giá ra để đàm phán tuỳ thuộc vào chính tổ chức quản lý tập thể. Có quốc gia yêu cầu tổ chức quản lý tập thể báo cáo biểu giá cho cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền trước khi thực hiện. Cũng có quốc gia đưa ra quyết định chấp nhận biểu giá do cơ quản quản lý tập thể quyền tác giả, quyền liên quan trình. Dù quản lý theo cách thức nào, thì việc xây dựng và thực hiện đám phán theo biểu giá vẫn thuộc quyền chủ động của các tổ chức quản lý tập thể, vì các quan hệ quyền tác giả, quyền liên quan là quan hệ tài sản của công dân và pháp nhân, được điều chỉnh bởi ngành luật dân sự. Việc thu và phân phối tiền sử dụng đều được thực hiện theo nguyên tắc công khai, minh bạch ở các tổ chức quản lý tập thể thuộc mọi quốc gia trên thế giới. Các tổ chức này được sử dụng một khoản tiền tính bằng tỷ lệ phần trăm (%) trên tổng số tiền thu được từ việc sử dụng, để chi phí hành chính cho bộ máy văn phòng. Tỷ lệ này do Hội viên quyết định, nó sẽ được giảm dần để phân phối lại cho các hội viên khi số tiền tuyệt đối thu được tăng lên.

Về hệ thống tổ chức quản lý tập thể ở Việt Nam:

Từ những năm 80 của thế kỷ XX, CISAC, IFPI đã đến Việt Nam để truyền bá những kiến thức cơ bản về quản lý tập thể quyền tác giả, quyền liên quan. Năm 2002 vào tháng 4, trong hai ngày 22 và 23, WIPO đã phối hợp với Việt Nam tổ chức Hội thảo về hoạt động của tổ chức rất đặc biệt này. Chuyên gia của WIPO, do WIPO mời đến từ các quốc gia phát triển, các quốc gia trong khu vực có đặc điểm tương đồng với Việt Nam, đã giới thiệu pháp , pháp luật quốc gia và kinh nghiệm thực thi. Nhiều hội thảo kế tiếp chuyên sâu, nâng cao ở từng lĩnh vực quản lý đã được tổ chức. Các mô hình tổ chức quản lý tập thể, hoạt động quản trị văn phòng, việc đàm phán cấp phép, thu và phân phối tiền sử dụng, kỹ năng thao tác các nghiệp và sưu tầm chứng cứ để đấu tranh đòi quyền lợi, các biểu giá thu, mẫu hợp đồng sử dụng, các vụ tranh chấp điển hình trên thế giới đã được các chuyên gia giàu kinh nghiệm truyền đạt, phân tích, lý giải trước các đối tượng tham dự. Việt Nam đã tổ chức nhiều đoàn nghiên cứu, khảo sát về cơ chế, chính sách, pháp luật, kinh nghiệm thực thi tại các quốc gia và vùng lãnh thổ như Hồng Kông, Trung Quốc, Nhật Bản, Singapore, Đức, Áo, Hà Lan, Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Thuỵ Sĩ, v.v…Đồng thời với việc trang bị kiến thức, các tổ chức quốc tế và một số quốc gia đã hỗ trợ tài chính cho những hoạt động ban đầu của tố chức quản lý tập thể Việt Nam.

Tiếp thu kiến thức kinh nghiệm quốc tế với cơ sở pháp lý là hệ thống pháp luật Việt Nam về quyền tác giả, quyền liên quan từng bước được hình thành, hoàn thiện; Việt Nam từng bước tham gia các Công ước quốc tế; nhu cầu về việc tổ chức ra đời để hoạt động quản lý tập thể đã trở nên bức thiết, đặc biệt đối với lĩnh vực âm nhạc. Vì vậy, với sự đỡ đầu của Bộ Văn hoá – Thông tin nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, các công việc liên quan đến chuẩn bị các văn kiện thành lập hoạt động đã được xúc tiến. Cơ sở pháp lý cho việc ra đời tổ chức phi Chính phủ đã được quy định tại Sắc lệnh số 102/SL-R400, ngày 20 tháng 05 năm 1957 và Nghị định số 88/2003 NĐ-CP, ngày 30 tháng 7 năm 2003, sau này là quy định tại Điều 56 Luật Sở hữu trí tuệ, Điều 41 Nghị định 100/2006 NĐ-CP, ngày 21 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ.

Từ các cơ sở pháp lý trên, Việt Nam đã lần lượt cho ra đời ba tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả, quyền liên quan để giải quyết các bức xúc về việc tự quản lý quyền cá nhân. Hệ thống thực thi mới, với mô hình quản lý tập thể lần đầu tiên xuất hiện ở Việt Nam được đánh dấu ở sự xuất hiện của VCPMC vào ngày 19/04/2002, sau nhiều nỗ lực vận động thành lập và sau đó là sự ra đời của RIAV ngày 16/06/2003, của VLCC ngày 25/08/2004. Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đã đóng vai trò “bà đỡ” cho sự ra đời, đồng thời thực hiện chức năng quản lý và hỗ trợ hoạt động của hệ thống này. Là lĩnh vực hoạt động chưa có tiền lệ, vì vậy các tổ chức quản lý tập thể trên phải đối mặt với biết bao thách thức, từ nhận thức chung của xã hội đến hiểu biết và việc thực hiện nghĩa vụ pháp lý khi sử dụng tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, chương trình phát sóng thuộc quyền tác giả, quyền liên quan. Đồng thời các tổ chức này cũng tiếp nhận được kinh nghiệm quốc tế quan trọng. Cơ hội bỏ qua các bước mò mẫm để tiếp cận trực tiếp với cách thức quản trị đã trở thành kinh nghiệm quý rút ra từ lịch sử, đã được các tổ chức quản lý tập thể Việt Nam đón nhận. Theo xu hướng này, Việt Nam phải xây dựng một đội ngũ chuyên trách, hoạt động chuyên nghiệp để thực hiện các công việc xây dựng và quản lý kho dữ liệu, đàm phán cấp phép sử dụng, phân phối tiền cho hội viên. Hiện các tổ chức quản lý tập thể đang từng bước phát huy và khẳng định vai trò không thể thiếu của mình đối với các chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan.

Hệ thống quản lý tập thể quyền tác giả, quyền liên quan của Việt Nam, với 3 tổ chức trên được ra đời và hoạt động theo mô hình tổ chức quản lý tập thể “truyền thống”. Với những kết quả thu được ở việc thử nghiệm về mô hình quản lý tập thể trong các năm qua, rất nhiều văn nghệ sĩ, trí thức đã có nguyện vọng uỷ thác quyền cho các tổ chức quản lý tập thể tương ứng. Một số hội văn học nghệ thuật cũng đã thể hiện ý chí của mình trong việc xin ra đời để hoạt động quản lý tập thể đối với loại hình tác phẩm, do lao động sáng tạo của hội viên thuộc hội tạo ra. Hiện có hai khả năng cho việc hình thành tổ chức quản lý tập thể. Một là, các hội văn học nghệ thuật còn lại, xin thành lập tổ chức quản lý tập thể đối với các sản phẩm sáng tạo của hội viên hội mình. Hai là, thành lập một tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả, quyền liên quan đối với các loại hình tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, chương trình phát sóng còn lại. Mô hình này là “sân chơi chung” cho các văn nghệ sĩ, trí thức có nhu cầu uỷ thác quyền. Nhưng, chỉ những loại hình tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, chương trình phát sóng mà việc tự quản lý quyền cá nhân tỏ ra không hiệu quả, và nhu cầu được sử dụng nhanh, thuận lợi từ phía các tổ chức, cá nhân đang là đòi hỏi bức thiết mới nên tham gia uỷ thác quyền. Mặt khác, tại Việt Nam các sản phẩm đa phương tiện, bao gồm sản phẩm có hoặc do nhiều tác phẩm tạo thành đã được sáng tạo rất nhiều, môi trường kỹ thuật số đã được hình thành tạo cơ hội cho hoạt động sáng tạo, lưu giữ, phân phối sản phẩm tới công chúng, để họ tự lựa chọn bất kỳ thời gian và địa điểm tiếp cận là một đặc điểm tình hình cần đến vai trò của một tổ chức quản lý tập thể tập trung. Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch luôn tạo điều kiện và hỗ trợ cho việc ra đời và hoạt động của các tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả, quyền liên quan, đồng thời sẽ giám sát hoạt động của các tổ chức này theo quy định pháp luật.

(MINH KHUE LAW FIRM: sưu tầm & biên tập)

Nếu bạn cần thêm thông tin xin đặt câu hỏi vào ô hỏi đáp bên dưới để chúng tôi có thể hỗ trợ cho bạn nhiều hơn. Xin chân thành cảm ơn.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *