Giới thiệu luật viễn thông

Xin chào bạn đến với chuyên trang tư vấn dịch vụ pháp luật. Sau đây là một số nội dung chỉ mang tính chất tham khảo. các bạn có thể đọc để hiểu thêm nhé.

Thực hiện Nghị quyết số 27/2008/QH12 ngày 15 tháng 11 năm 2008 của Quốc hội khoá XII, kỳ họp thứ 4 về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2009, Chính phủ đã tổ chức, chỉ đạo việc xây dựng và trình Quốc hội dự án Luật Viễn thông. Quốc hội đã thảo luận, cho ý kiến tại hai kỳ họp và đã nhất trí thông qua Luật Viễn thông với đa số phiếu tán thành tại phiên họp ngày 23/11/2009.

Ngày 17/12/2009, Văn phòng Chủ tịch nước đã công bố Lệnh số 18/2009/L-CTN ngày 04 tháng 12 năm 2009 của Chủ tịch nước về Luật Viễn thông.

I. SỰ CẦN THIẾT VÀ MỤC TIÊU BAN HÀNH LUẬT VIỄN THÔNG

Trong những năm qua cùng với quá trình phát triển của đất nước, ngành viễn thông Việt Nam là một trong những ngành có những bước phát triển rất nhanh và đang trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. Với những chính sách tích cực về viễn thông, nhất là sau khi ban hành Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông năm 2002, Việt Nam đã tạo ra hành lang pháp lý để thúc đẩy cạnh tranh, khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp mới tham gia thị trường. Mạng lưới cơ sở hạ tầng kỹ thuật viễn thông và chất lượng dịch vụ viễn thông ngày càng được hoàn thiện và nâng cao, trong khi giá cước từng bước giảm xuống bằng và thấp hơn mức bình quân của khu vực và thế giới. Tuy nhiên, sau một thời gian triển khai các quy định về viễn thông, đặc biệt khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông năm 2002 đã bộc lộ một số điểm không còn phù hợp, vì vậy việc xây dựng Luật Viễn thông là hết sức cần thiết, đặc biệt khi xem xét trên cơ sở các luận cứ sau:

1. Hoàn thiện hành lang pháp lý phù hợp với sự thay đổi của thị trường, công nghệ và luật pháp chung nhằm tiếp tục tạo điều kiện và thúc đẩy ngành viễn thông phát triển

a. Thị trường viễn thông chuyển mạnh từ độc quyền sang cạnh tranh.

Nghị định số 109/1997/NĐ-CP ngày 12/11/1997 của Chính phủ về bưu chính và viễn thông quy định lĩnh vực bưu chính viễn thông là độc quyền nhà nước (chỉ có doanh nghiệp Nhà nước mới được phép kinh doanh) đồng thời bắt đầu bóc tách giữa chức năng quản lý Nhà nước với chức năng kinh doanh về bưu chính viễn thông. Trong giai đoạn này, Nhà nước bắt đầu xoá bỏ độc quyền doanh nghiệp bằng việc cấp phép cho các doanh nghiệp khác kinh doanh viễn thông như: Tổng Công ty Viễn thông Quân đội (Viettel); Công ty Cổ phần Dịch vụ Bưu chính Viễn thông Sài Gòn (SPT). Tuy nhiên, do các lý do khách quan và chủ quan sau khi được cấp phép các doanh nghiệp mới chưa triển khai được mạng lưới và Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) vẫn cung cấp hầu hết các dịch vụ viễn thông trên thị trường. Như vậy, trước năm 2000 thị trường viễn thông Việt Nam về cơ bản vẫn là thị trường độc quyền doanh nghiệp.

Ngày 25/5/2002, được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X thông qua, cùng các văn bản hướng dẫn như Nghị định số 160/2004/NĐ-CP ngày 03/09/2004 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông về viễn thông; Nghị định số 24/2004/NĐ-CP ngày 14/01/2004 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông về tần số vô tuyến điện đã thể hiện quan điểm tiếp tục mở cửa, thúc đẩy thị trường viễn thông cạnh tranh, phát triển lành mạnh. Do đó thị trường viễn thông ngày càng mang tính cạnh tranh cao hơn và có những thay đổi lớn, công nghệ mới được áp dụng nhanh, chất lượng dịch vụ ngày càng được nâng cao, giá cước ngày càng hạ, doanh số ngành viễn thông (năm 2008: trên 90.000 tỷ VNĐ) tăng với tỷ lệ khoảng 30% năm, đóng góp lớn cho ngân sách Nhà nước (năm 2008: trên 11.000 tỷ VNĐ). Đồng thời nhiều doanh nghiệp hạ tầng mạng, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông đã được cấp phép (tính đến hết năm 2008 đã có 10 doanh nghiệp hạ tầng mạng và hơn 60 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông đã được Bộ Thông tin và Truyền thông cấp phép). Số lượng thuê bao điện thoại, Internet phát triển nhanh chóng (năm 2008: hơn 70 triệu thuê bao điện thoại và hơn 20 triệu người sử dụng Internet).

Cạnh tranh trên thị trường viễn thông Việt Nam đã giúp cho ngành viễn thông phát triển nhanh, mang lại lợi ích cho người dân và doanh nghiệp, song cũng đòi hỏi hệ thống luật pháp cần có những thay đổi quan trọng (vấn đề mở rộng sự tham gia của các thành phần kinh tế khác trong kinh doanh hạ tầng mạng viễn thông, vấn đề áp dụng các cơ chế kinh tế thị trường trong quản lý tài nguyên viễn thông như đấu giá, chuyển quyền sử dụng v.v) để quản lý và thúc đẩy thị trường viễn thông phát triển trong điều kiện mới, đặc biệt là trong giai đoạn tới khi mức độ cạnh tranh còn cao hơn nữa với sự tham gia của cả các nhà đầu tư nước ngoài theo cam kết của Việt Nam trong WTO.

b. Công nghệ thông tin và truyền thông tiếp tục phát triển theo hướng hội tụ

Trên thế giới, sự hội tụ (convergence) giữa viễn thông, máy tính (Internet) và phát thanh, truyền hình (broadcasting) đang diễn ra với tốc độ nhanh chóng. Trong viễn thông còn xảy ra sự hội tụ giữa cố định và di động, giữa thoại và dữ liệu. Hội tụ nói chung bao gồm hội tụ về mạng lưới hạ tầng (infrastructure) và hội tụ về dịch vụ (service). Trước đây, các mạng lưới khác nhau chuyên cung cấp các dịch vụ chuyên biệt khác nhau : mạng viễn thông cung cấp các dịch vụ viễn thông, mạng Internet cung cấp các dịch vụ liên quan đến kết nối các máy tính, mạng lưới truyền dẫn phát sóng phát thanh truyền hình cung cấp các dịch vụ phát thanh truyền hình quảng bá. Bản thân mỗi dịch vụ này cũng có những đặc tính tương đối khác nhau, ví dụ dịch vụ viễn thông mang tính tương tác hai chiều, dịch vụ quảng bá mang tính chất một chiều. Tuy nhiên hiện nay, trên cùng một mạng có thể cung cấp các dịch vụ khác nhau “3 trong 1” và “4 trong 1” (triple play, quadruple play). Ví dụ điển hình là trên máy di động cầm tay có thể nhận được các chương trình truyền hình, có thể nghe đài, có thể truy nhập Internet và nói chuyện điện thoại, ngược lại trên mạng truyền hình cáp có thể cung cấp các dịch vụ viễn thông và Internet, còn trên mạng Internet có thể cung cấp dịch vụ phát thanh, truyền hình.

Sự hội tụ nêu trên xuất phát từ sự phát triển rất nhanh của công nghệ viễn thông và công nghệ thông tin. Sự hội tụ này đòi hỏi sự thống nhất của môi trường pháp lý cũng như sự thống nhất của công tác quản lý để tạo điều kiện cho công nghệ và dịch vụ hội tụ có cơ hội phát triển. Trong khi đó Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông năm 2002 và các văn bản pháp quy hiện hành chủ yếu tập trung điều chỉnh các hoạt động liên quan đến dịch vụ viễn thông truyền thống, không còn phù hợp với thực tế và thông lệ quốc tế cũng như không tạo môi trường tốt cho các công nghệ và dịch vụ hội tụ phát triển.

c. Môi trường pháp luật chung có nhiều thay đổi

Trong giai đoạn vừa qua, nhiều văn bản pháp luật mới với các cơ chế, chính sách phát huy nội lực, mở cửa hội nhập, thúc đẩy đầu tư, đẩy mạnh cạnh tranh, phát triển môi truờng mạng như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư; Luật Cạnh tranh, Luật Công nghệ thông tin, v.v… được ban hành. Bên cạnh đó, nhiều điều ước quốc tế đã được ký kết như các thoả thuận thương mại song phương và đa phương, đặc biệt thoả thuận gia nhập WTO của Việt Nam đã cam kết mở cửa thị trường viễn thông, cho phép nhà đầu tư nước ngoài hợp tác với các doanh nghiệp Việt Nam để thiết lập mạng và cung cấp dịch vụ viễn thông tại Việt Nam hoặc cung cấp dịch vụ xuyên biên giới.

Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông năm 2002 và các văn bản hướng dẫn được ban hành trước một số Luật và các điều ước quốc tế nêu trên nên nhiều khái niệm và quy định của Pháp lệnh không đồng nhất, chưa hoàn toàn phù hợp với các quy định pháp luật hiện hành. Vì vậy, việc xây dựng một văn bản luật mới thay thế Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông năm 2002 để bảo đảm tính thống nhất của hệ thống luật pháp chung là hết sức cần thiết.

2. Thể chế hoá các quan điểm, cơ chế, chính sách mới của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là về kinh tế thị trường, cải cách hành chính để phát huy nội lực, thúc đẩy canh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực viễn thông

a. Đẩy mạnh cải cách hành chính

Đảng và Nhà nước chủ trương đẩy mạnh cải cách hành chính trong đó hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ máy hành chính, cơ chế, chính sách, luật pháp phù hợp với thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; cải cách thủ tục hành chính theo hướng công khai, đơn giản và thuận tiện cho người dân và doanh nghiệp; các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện chức năng chủ yếu là quản lý vĩ mô toàn xã hội bằng pháp luật, quy hoạch, kế hoạch, tiêu chuẩn, quy chuẩn và hướng dẫn, kiểm tra thực hiện.

Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông được banh hành từ năm 2002 với các quy định nặng về cấp phép, nhẹ về tự quản lý; nặng về tiền kiểm, nhẹ về hậu kiểm; Nhà nước can thiệp sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là quản lý giá cước và chất lượng dịch vụ; v.v… Do đó cần đẩy mạnh cải cách hành chính trong công tác quản lý viễn thông, chuyển mạnh từ quản lý tiền kiểm sang quản lý hậu kiểm đồng thời cần minh bạch, phân định rõ hoạt động xây dựng chính sách (policy maker) và hoạt động thực thi pháp luật (regulator) để đảm bảo thực hiện tốt vai trò Nhà nước là trọng tài trên thị trường có mức cạnh tranh cao, đảm bảo công tác thực thi quản lý Nhà nước một cách hiệu quả, công khai, minh bạch theo yêu cầu của WTO và thông lệ quốc tế.

b. Áp dụng cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong hoạt động kinh tế

Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X và các Nghị quyết Hội nghị Trung ương đã xác định rõ: Đảng và Nhà nước định hướng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; trong đó chủ trương chuyển mạnh sang nền kinh tế thị trường, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo bước đột phá trong xây dựng kết cấu hạ tầng, tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia và cạnh tranh bình đẳng trên thị trường dịch vụ, Nhà nước giữ cổ phần chi phối đối với các tổng công ty, công ty cổ phần hoạt động trong những ngành, những lĩnh vực thiết yếu cho việc bảo đảm những cân đối lớn của nền kinh tế. Nhà nước kiểm soát chặt chẽ độc quyền và tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia và cạnh tranh bình đẳng trên thị trường dịch vụ.

Trong khi đó, theo Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông năm 2002 chỉ có các doanh nghiệp nhà nước hoặc doanh nghiệp mà vốn góp của Nhà nước chiếm cổ phần chi phối mới được phép thiết lập hạ tầng mạng và cung cấp dịch vụ viễn thông. Mặc dù cơ sở hạ tầng viễn thông Việt Nam trong thời gian qua đã phát triển rất nhanh, song quy mô và sự phát triển bền vững so với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới vẫn còn nhiều hạn chế, người dân ở vùng sâu, vùng xa vẫn chưa được tiếp cận đầy đủ với các dịch vụ viễn thông tiên tiến. Để phát triển mạng viễn thông rộng khắp cả nước đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước việc huy động, khuyến khích mọi nguồn lực tham gia phát triển hạ tầng viễn thông là hết sức cần thiết. Do đó, quy định về sở hữu nhà nước trong các doanh nghiệp thiết lập mạng viễn thông đang hạn chế việc phát huy nội lực thúc đẩy cạnh tranh, tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế phát triển viễn thông và Internet.

Bên cạnh đó, theo pháp luật hiện hành việc phân bổ tài nguyên viễn thông từ trước đến nay vẫn được thực hiện chủ yếu trên cơ sở xét cấp theo nguyên tắc “ai xin trước cấp trước” ngay cả đối với nguồn tài nguyên quý hiếm mang tính thương mại cao như tần số vô tuyến điện. Việc quản lý tài nguyên viễn thông theo nguyên tắc này chưa hoàn toàn phù hợp với cơ chế thị trường, đặc biệt là khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO vì không phản ánh đúng giá trị nguồn tài nguyên viễn thông do đó hạn chế việc sử dụng tài nguyên được phân bổ một cách hiệu quả và tiết kiệm, chưa phân bổ đúng cho đối tượng thực sự cần và thực sự có năng lực đồng thời không minh bạch rõ ràng theo thông lệ quốc tế. Cần thay đổi nguyên tắc phân bổ tài nguyên viễn thông theo hướng thi tuyển, đấu giá đối với một số nguồn tài nguyên viễn thông quý hiếm, mang tính thương mại cao khi nhu cầu vượt quá khả năng phân bổ đồng thời cho phép chuyển nhượng nguồn tài nguyên này cho tổ chức, cá nhân khác nếu có phương án sử dụng hiệu quả hơn.

>>

Dịch vụ đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ

– Ảnh minh họa

 

II. QUAN ĐIỂM, NGUYÊN TẮC CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG LUẬT VIỄN THÔNG

Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Thông tin và Truyền thông thành lập Ban soạn thảo với sự tham gia của đại diện các Bộ, ngành liên quan để triển khai xây dựng Luật Viễn thông. Ban soạn thảo đã tiến hành nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn phát triển viễn thông ở nước ta trong những năm qua, tham khảo kinh nghiệm quản lý và xây dựng pháp luật về viễn thông của một số nước (như Anh, Pháp, Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Úc, Trung Quốc) và các điều ước quốc tế về viễn thông để xây dựng các quy phạm điều chỉnh lĩnh vực này phù hợp với yêu cầu thực tiễn trong nước và thông lệ quốc tế. Dự án Luật Viễn thông được hoàn thành và chỉnh lý nhiều lần trên cơ sở ý kiến góp ý của các Bộ, ngành, cơ quan, tổ chức có liên quan, tư vấn của Liên minh Viễn thông Quốc tế, các chuyên gia, các nhà khoa học trong và ngoài nước về lĩnh vực viễn thông; đã được Chính phủ thông qua với sự nhất trí cao tại phiên họp thường kỳ tháng 3 năm 2009 để trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến.

Luật Viễn thông được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc sau:

1. Hoàn thiện pháp luật về viễn thông theo hướng đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ, khả thi của các quy định trong lĩnh vực này; thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước, phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam, thông lệ quốc tế và các Điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập, nhất là cam kết WTO.

2. Phát huy các nguồn lực của đất nước để phát triển nhanh, tăng nhanh năng lực và hiện đại hoá viễn thông; đẩy mạnh phát triển cơ sở hạ tầng viễn thông hiện đại, đồng bộ và ổn định, đáp ứng cho phát triển kinh tế – xã hội, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân và bảo đảm quốc phòng, an ninh.

3. Thúc đẩy cạnh tranh, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế tham gia kinh doanh viễn thông trong môi trường công bằng, minh bạch theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

4. Tôn trọng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động viễn thông; ngăn chặn những hành vi lợi dụng viễn thông gây ảnh hưởng đến , vi phạm đạo đức, thuần phong mỹ tục, vi phạm các quy định của pháp luật.

5. Đẩy mạnh cải cách hành chính trong quản lý viễn thông, chuyển mạnh từ quản lý tiền kiểm sang quản lý hậu kiểm. Đảm bảo hiệu quả công tác thực thi quản lý nhà nhà nước trong lĩnh vực này.

6. Mở rộng hợp tác quốc tế về viễn thông trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi, phù hợp với pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập.

III. NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA LUẬT VIỄN THÔNG

1. Bố cục của Luật Viễn thông

Luật Viễn thông gồm 10 chương, 63 điều:

Chương I: Những qui định chung

Chương II: Kinh doanh viễn thông

Chương III: Viễn thông công ích

Chương IV: Thiết lập mạng và cung cấp dịch vụ viễn thông

Chương V: Cấp giấy phép viễn thông

Chương VI: Kết nối và chia sẻ cơ sở hạ tầng viễn thông

Chương VII: Tài nguyên viễn thông

Chương VIII: Quản lý tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng và giá cước viễn thông

Chương IX: Công trình viễn thông

Chương X: Điều khoản thi hành

Luật Viễn thông có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2010. Các quy định về viễn thông của Pháp lệnh bưu chính, viễn thông số 43/2002/PL-UBTVQH10 hết hiệu lực kể từ ngày Luật Viễn thông có hiệu lực.

2. Những nội dung mới quan trọng của Luật Viễn thông

a. Tạo điều kiện và mở rộng sự tham gia của các thành phần kinh tế trong kinh doanh viễn thông, đặc biệt là đối với lĩnh vực thiết lập hạ tầng mạng

Trên thực tế, mặc dù cơ sở hạ tầng viễn thông Việt Nam trong thời gian qua đã phát triển rất nhanh, song quy mô và sự phát triển bền vững so với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới vẫn còn nhiều hạn chế. Một bộ phận người dân ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo vẫn chưa được tiếp cận với các dịch vụ viễn thông. Chất lượng và giá cước một số dịch vụ có nơi, có lúc còn chưa đảm bảo và đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Để phát triển mạng viễn thông rộng khắp cả nước đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Việt Nam vẫn cần những nguồn đầu tư rất lớn để phát triển mạng viễn thông quốc gia. Vì vậy việc huy động, khuyến khích mọi nguồn lực của xã hội, kể cả thành phần kinh tế tư nhân tham gia phát triển hạ tầng là hết sức cần thiết. Bên cạnh đó việc chỉ cho các doanh nghiệp Nhà nước tham gia xây dựng hạ tầng mạng, một mặt sẽ làm giảm hiệu quả đầu tư và tăng rủi ro kinh doanh vốn nhà nước trong lĩnh vực này do cạnh tranh giữa các doanh nghiệp Nhà nước với nhau, mặt khác việc mở rộng cho các thành phần kinh tế khác tham gia cung cấp hạ tầng mạng cũng là yêu cầu tất yếu của quá trình hội nhập, nhất là khi Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của WTO với cam kết đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong việc gia nhập thị trường viễn thông.

Về quan điểm, Đảng và Nhà nước khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển các lĩnh vực sản xuất kinh doanh quan trọng của đất nước, trong đó có viễn thông. Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X xác định: “xoá bỏ mọi rào cản tâm lý xã hội và tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các loại hình doanh nghiệp tư nhân phát triển không hạn chế quy mô ngành nghề, lĩnh vực, kể cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh quan trọng của nền kinh tế mà pháp luật không cấm”. Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng khẳng định “Tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo hướng khẳng định sự tồn tại khách quan, lâu dài và khuyến khích sự phát triển đa dạng các hình thức sở hữu, các loại hình doanh nghiệp, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ sở hữu khác nhau trong nền kinh tế” và “thực hiện nghiêm túc, nhất quán một mặt bằng pháp lý và cho các doanh nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu, thành phần kinh tế; khuyến khích phát triển các doanh nghiệp tư nhân trong và ngoài nước vào các lĩnh vực mà pháp luật không cấm; tạo điều kiện để các doanh nghiệp của tư nhân tiếp cận các nguồn lực của Nhà nước trên nguyên tắc cạnh tranh bình đẳng”. Chỉ thị số 58 của Bộ Chính trị về phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin cũng yêu cầu các cơ quan nhà nước xây dựng các cơ chế, chính sách nhằm “phát huy nội lực, thúc đẩy cạnh tranh, tạo mọi điều kiện để các thành phần kinh tế tham gia phát triển viễn thông và Internet”.

Chính vì vậy, Luật Viễn thông đã quy định các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được thành lập theo pháp luật Việt Nam đều được tham gia cung cấp dịch vụ viễn thông cũng như thiết lập hạ tầng mạng viễn thông (khoản 23 Điều 3).

b. Bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa và tăng cường vai trò quản lý nhà nước trong hoạt động viễn thông

Với vai trò là ngành kinh tế dịch vụ kỹ thuật thuộc cơ sở hạ tầng quốc gia như các ngành giao thông, điện, nước, v.v… viễn thông gắn chặt với các hoạt động kinh tế xã hội khác và nhằm đảm bảo nhu cầu thông tin thiết yếu của mọi người dân. Bên cạnh đó viễn thông cũng là công cụ phục vụ trực tiếp sự chỉ đạo điều hành của Đảng, Nhà nước và chính quyền các cấp đồng thời có quan hệ mật thiết với các lĩnh vực an ninh, quốc phòng và là hạ tầng để truyền tải thông tin đại chúng, đặc biệt là lĩnh vực phát thanh, truyền hình và Internet (báo nói, báo hình, báo điện tử). Song song với việc mở cửa thị trường cho phép các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia kinh doanh viễn thông, kể cả việc thiết lập hạ tầng mạng, đẩy mạnh cải cách hành chính trong quản lý viễn thông và đảm bảo môi trường kinh doanh bình đẳng, công khai, minh bạch theo cơ chế thị trường, theo đó:

– Luật Viễn thông giao Thủ tướng Chính phủ, tuỳ theo từng thời kỳ, quyết định việc Nhà nước tiếp tục nắm quyền kiểm soát thông qua việc nắm cổ phần chi phối trong một số doanh nghiệp viễn thông chủ lực (VNPT, VIETTEL v.v…) có tầm quan trọng đặc biệt đối với toàn bộ mạng viễn thông quốc gia và ảnh hưởng trực tiếp đến việc phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng của đất nước (khoản 1 Điều 17). Xây dựng, nâng cấp, hoàn thiện các mạng viễn thông chuyên dùng phục vụ chỉ đạo điều hành của Đảng, Nhà nước và chính quyền các cấp trên cơ sở bóc tách rõ chức năng phục vụ chính trị với sản xuất kinh doanh để đảm bảo an toàn, an ninh thông tin trong quá trình mở cửa thị trường. Đây là các yếu tố quan trọng để thúc đẩy đa sở hữu trong các doanh nghiệp viễn thông và hình thành một thị trường viễn thông được mở cửa cạnh tranh hoàn toàn, bình đẳng và đúng pháp luật, phù hợp với thông lệ quốc tế và cam kết của Việt Nam trong WTO, nhưng vẫn giữ được vai trò kiểm soát, điều tiết của nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa trong hoạt động viễn thông. Quan điểm chung của Đảng và Nhà nước ta cũng khẳng định: “thúc đẩy việc hình thành một số tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước mạnh hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực, trong đó có ngành chính, có nhiều chủ sở hữu, sở hữu nhà nước giữ vai trò chi phối” và “Nhà nước giữ cổ phần chi phối đối với các tổng công ty, công ty cổ phần hoạt động trong những ngành, những lĩnh vực thiết yếu bảo đảm những cân đối lớn của nền kinh tế”.

– Tăng cường công tác thực thi quản lý nhà nước trong lĩnh vực viễn thông. Đây cũng là yêu cầu của WTO với mục đích tổ chức công tác thực thi pháp luật một cách chặt chẽ, hiệu quả nhưng công khai, minh bạch, nhanh chóng và công bằng nhằm đảm bảo môi trường kinh doanh bình đẳng khi mọi thành phần kinh tế tham gia thị trường viễn thông. Trên thế giới việc phân định rõ hoạt động của cơ quan thực thi pháp luật (Independent regulator – Cơ quan quản lý viễn thông độc lập) với cơ quan hoạch định chính sách (policy maker) được 147 nước trong tổng số gần 200 nước thành viên của Liên minh Viễn thông Quốc tế – ITU áp dụng. Để đảm bảo yêu cầu cam kết của Việt nam theo tài liệu tham chiếu trong hiệp định viễn thông cơ bản của WTO, Luật Viễn thông đã tăng cường công tác thực thi pháp luật trong lĩnh vực viễn thông trên cơ sở thành lập Cơ quan quản lý chuyên ngành về viễn thông để quản lý thị trường và nghiệp vụ viễn thông (Điều 10).

c. Đẩy mạnh cải cách hành chính trong hoạt động quản lý viễn thông và đảm bảo quyền, lợi ích của người sử dụng dịch vụ viễn thông

Minh bạch và công khai hóa việc cấp phép viễn thông, chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm thông qua việc bỏ bớt các thủ tục về đăng ký, thẩm tra dự án đầu tư (khoản 4, 5 Điều 18), danh mục các dịch vụ Nhà nước quy định giá cước, chuyển từ việc cấp chứng nhận sang tự công bố chất lượng dịch vụ v.v. Luật Viễn thông xây dựng trên cơ sở Nhà nước đưa ra quy định, các doanh nghiệp tự quản lý và Nhà nước chỉ tiến hành thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp xem có thực hiện đúng quy định hay không. Trong trường hợp có mâu thuẫn giữa các doanh nghiệp về các nội dung nghiệp vụ chuyên sâu về thiết lập mạng và cung cấp dịch vụ viễn thông, Cơ quan quản lý chuyên ngành về viễn thông sẽ là người trọng tài công khai, minh bạch theo đúng thông lệ quốc tế và cam kết gia nhập WTO của Việt Nam.

d. Áp dụng cơ chế thị trường trong quản lý kho số viễn thông, tài nguyên Internet

Tài nguyên viễn thông (tần số, kho số, tên miền, địa chỉ Internet) là dạng tài nguyên có giá trị và trong nhiều trường hợp là tài nguyên quý hiếm, hữu hạn, mang tính thương mại cao và tổng số nguồn tài nguyên này không đủ khả năng phân bổ theo nhu cầu sử dụng. Trên thế giới việc phân bổ nguồn tài nguyên viễn thông này được thực hiện thông qua nhiều hình thức như cấp trực tiếp, đấu giá, thi tuyển. Đặc biệt là đối với nguồn tài nguyên như các băng tần số thương mại, có khả năng sinh lợi nhuận cao (ví dụ băng tần 3G) thì đa số các nước áp dụng hình thức thi tuyển hoặc đấu giá, qua đó Nhà nước có thể thu được hàng trăm triệu thậm chí hàng chục tỷ USD như tại Tây Âu, Bắc Mỹ.

Để khắc phục các tồn tại về quản lý tài nguyên viễn thông thì việc áp dụng các cơ chế thị trường sau đây đối với quản lý tài nguyên viễn thông là hết sức cần thiết:

– Phân bổ tài nguyên viễn thông, đặc biệt là đối với các băng tần số mang tính thương mại cao sẽ được thực hiện chủ yếu thông qua các hình thức thi tuyển, đấu giá;

– Cho phép chuyển nhượng quyền sử dụng tài nguyên viễn thông có được thông qua đấu giá;

– Thực hiện đền bù khi Nhà nước giải phóng tài nguyên viễn thông theo quy hoạch.

Do đó, để tăng cường hiệu quả sử dụng kho số viễn thông, tài nguyên Internet, ngoài hình thức phân bổ trực tiếp theo nguyên tắc “đến trước, cấp trước”, Luật Viễn thông đã quy định thêm các hình thức phân bổ thi tuyển, đấu giá đối với các tài nguyên viễn thông có giá trị thương mại cao, nhu cầu sử dụng vượt quá khả năng phân bổ (khoản 2 Điều 48), đồng thời cho phép chuyển nhượng quyền sử dụng kho số viễn thông, tài nguyên Internet có được thông qua đấu giá (Điều 49); thực hiện bồi thường khi Nhà nước thu hồi kho số viễn thông, tài nguyên Internet theo quy hoạch hoặc phục vụ lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh (khoản 4 Điều 50).

đ. Bảo đảm môi trường kinh doanh viễn thông cạnh tranh công bằng, minh bạch, công khai

Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông năm 2002 chủ yếu điều chỉnh các quy định về kỹ thuật, nghiệp vụ viễn thông trong khi các quy định về thị trường, về hoạt động kinh doanh viễn thông chưa được thể hiện rõ nét trong khi một số quốc gia có một Luật riêng về Kinh doanh viễn thông (Telecommunication Business Act). Để khắc phục hạn chế này của Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông năm 2002 cũng như để đảm bảo phù hợp với điều kiện thực tế và thông lệ quốc tế Luật Viễn thông đã quy định một chương (Chương II) về Kinh doanh viễn thông. Các quy định tại chương này về doanh nghiệp viễn thông; đầu tư trong viễn thông; cạnh tranh trong kinh doanh viễn thông; sở hữu trong doanh nghiệp viễn thông; v.v… sẽ tiếp tục thúc đẩy cạnh tranh, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế tham gia kinh doanh viễn thông trong môi trường bình đẳng, công bằng, minh bạch theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Riêng đối với việc đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực viễn thông, dự án Luật quy định áp dụng theo lộ trình Việt Nam đã cam kết khi gia nhập WTO.

e. Bảo đảm phổ cập dịch vụ viễn thông ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo và thực hiện các nhiệm vụ công ích do nhà nước giao

Cũng như hầu hết các nước đang phát triển, song song với việc thúc đẩy hoạt động kinh doanh viễn thông theo cơ chế thị trường thì Nhà nước cần có chính sách, cơ chế nhằm bảo đảm việc cung cấp dịch vụ viễn thông thiết yếu đến mọi người dân, đặc biệt là tại các vùng sâu, vùng xa bởi vì việc kinh doanh tại các địa bàn này không bảo đảm đủ bù đắp được chi phí và phát sinh lợi nhuận theo cơ chế thị trường. Tính chất đặc thù của lĩnh vực viễn thông thể hiện ở chỗ cũng chỉ có các doanh nghiệp viễn thông mới triển khai cung cấp được dịch vụ tại các vùng sâu, vùng xa này đồng thời về cơ bản, Nhà nước không sử dụng nguồn vốn ngân sách đối với hoạt động này mà sử dụng nguồn tài chính do chính các doanh nghiệp viễn thông đóng góp từ khoản lợi nhuận do kinh doanh các dịch vụ viễn thông khác mang lại. Chính vì vậy, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định thành lập Quỹ dịch vụ viễn thông công ích Việt Nam, bắt đầu hoạt động từ năm 2005 và hiện đang hoạt động có hiệu quả. Khái niệm dịch vụ viễn thông công ích không phải là dịch vụ hành chính công mà là một trong các dịch vụ viễn thông do doanh nghiệp viễn thông triển khai thực hiện tại các vùng khó khăn do Nhà nước chỉ định, với một tính chất đặc thù là ban đầu có thể không sinh lợi nhưng dần dần về sau sẽ phát sinh lợi nhuận. Hiện nay Quỹ dịch vụ viễn thông công ích Việt Nam đang hoạt động tốt, đóng góp phần quan trọng vào việc phát triển phổ cập dịch vụ cho các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn để rút ngắn khoảng cách về sử dụng dịch vụ viễn thông giữa các vùng, miền, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội và góp phần đảm bảo an ninh, quốc phòng (trong thời gian qua Quỹ đã huy động được trên 2.800 tỷ đồng để phát triển trên 1,8 triệu thuê bao điện thoại cố định, 39 nghìn thuê bao Internet và duy trì trên 6.000 điểm truy nhập điện thoại và Internet công cộng tại trên 4.000 xã ở các vùng khó khăn hoặc có mật độ điện thoại, Internet thấp).

Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông năm 2002 đã quy định về cung cấp dịch vụ viễn thông công ích như các loại dịch vụ viễn thông công ích; thực hiện nghĩa vụ cung cấp dịch vụ viễn thông công ích; quản lý việc cung cấp dịch vụ viễn thông công ích… Kế thừa các quy định của Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông năm 2002 về cung cấp dịch vụ viễn thông công ích và để tiếp tục thúc đẩy việc phổ cập các dịch vụ viễn thông đến mọi người dân trên cả nước nhằm rút ngắn khoảng cách về sử dụng dịch vụ viễn thông giữa các vùng, miền và thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội cũng như đảm bảo an ninh, quốc phòng, Luật Viễn thông đã quy định một chương (Chương III) về Viễn thông công ích. Theo đó, Luật đã quy định các nội dung về hoạt động viễn thông công ích; bảo đảm thực hiện hoạt động viễn thông công ích; Quỹ dịch vụ viễn thông công ích. Ngoài các dịch vụ viễn thông công ích tự điều tiết trong ngành viễn thông thông qua Quỹ dịch vụ viễn thông công ích, các nhiệm vụ công ích khác do Nhà nước đặt hàng để các doanh nghiệp viễn thông triển khai thì Nhà nước sử dụng nguồn vốn từ ngân sách để chi trả cho doanh nghiệp nhằm đảm bảo tính công khai, minh bạch theo cơ chế thị trường.

g. Bảo đảm việc quy hoạch, xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng viễn thông bền vững, an toàn

Bên cạnh những mặt tích cực của việc phát triển viễn thông nói chung và phát triển cơ sở hạ tầng viễn thông nói riêng trong thời gian vừa qua thì việc phát triển hạ tầng viễn thông nhất là phát triển bền vững hạ tầng viễn thông cũng đã bộc lộ những bất cập cần được khắc phục, điều chỉnh và có biện pháp quản lý kịp thời như vấn đề quy hoạch phát triển cơ sở hạ tầng viễn thông, công trình viễn thông; vấn đề sử dụng chung cơ sở hạ tầng viễn thông.v.v… Luật đã quy định một chương (Chương IX) về Công trình viễn thông. Theo đó quy hoạch công trình viễn thông được xác định là một bộ phận quan trọng phải có trong quy hoạch xây dựng các khu đô thị, khu dân cư, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ trong đầu tư xây dựng và thuận tiện cho việc cung cấp, sử dụng dịch vụ viễn thông. Đồng thời Luật cũng khuyến khích các biện pháp đảm bảo mỹ quan đô thị, khu dân cư trong phát triển hạ tầng mạng viễn thông như ngầm hóa mạng cáp viễn thông tại các khu đô thị thông qua việc giao cho Ủy ban nhân dân các địa phương xây dựng quy hoạch các công trình viễn thông thụ động (nhà, trạm, công bể cáp, cột ăng ten…) gắn với quy hoạch xây dựng tại các địa phương. Luật cũng thúc đẩy việc sử dụng chung cơ sở hạ tầng giữa các ngành như viễn thông, điện lực, giao thông cũng như việc tăng cường sử dụng chung công trình viễn thông giữa các doanh nghiệp viễn thông.

IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN

Luật Viễn thông sẽ có hiệu lực từ ngày 01/07/2010, để Luật sớm đi vào cuộc sống và được thực thi một cách có hiệu quả thì các công việc cần tập trung triển khai là:

1. Xây dựng các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Viễn thông một cách kịp thời và đồng bộ

Luật Viễn thông là Luật được quy định khá chi tiết, kế thừa nhiều nội dung của pháp luật hiện hành còn phù hợp. Để khi Luật có hiệu lực thi hành được áp dụng dễ dàng và thuận lợi, một số văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành sẽ được xây dựng, ban hành, gồm Nghị định của Chính phủ, Quyết định, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ và một số Thông tư của Bộ Thông tin và Truyền thông. Cụ thể là:

+ Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Viễn thông.

+ Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về phát triển hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông.

+ Quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định chi tiết việc thiết lập, vận hành và khai thác mạng viễn thông dùng riêng của các cơ quan Đảng, Nhà nước.

+ Các Thông tư của Bộ Thông tin và Truyền thông quy định chi tiết vấn đề liên quan đến kết nối các mạng viễn thông công cộng; sử dụng chung cơ sở hạ tầng giữa các doanh nghiệp viễn thông; hoạch toán giá thành dịch vụ viễn thông; giá cước kết nối các mạng viễn thông công cộng; quy định quản lý kho số viễn thông; bán lại dịch vụ viễn thông; chế độ báo cáo thông tin của các doanh nghiệp viễn thông…

+ Các Thông tư của Bộ Tài chính hướng dẫn việc thu lệ phí cấp phép và phí quyền hoạt động viễn thông; việc thu phí phân bổ và phí sử dụng kho số viễn thông; về giá cước mạng TSL chuyên dùng.

2. Tăng cường công tác thực thi pháp luật trong lĩnh vực viễn thông trên cơ sở thành lập Cơ quan quản lý chuyên ngành về viễn thông để quản lý thị trường và nghiệp vụ viễn thông (xây dựng đề án thành lập Cục Viễn thông) và tổ chức tuyên truyền, phổ biến Luật Viễn thông đến các cơ quan, tổ chức, cá nhân để nâng cao hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật về viễn thông.

Liên hệ sử dụng dịch vụ đăng ký bảo hộ tại Việt Nam.

Quý khách hàng có nhu cầu sử dụng dịch vụ vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi:

CÔNG TY LUẬT TNHH MINH KHUÊ

Điện thoại yêu cầu dịch vụ luật sư Sở hữu trí tuệ, gọi:

Gửi thư tư vấn hoặc yêu cầu dịch vụ qua Email: 

Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!

Trân trọng./.

Bộ phận luật sư Sở hữu Trí tuệ – Minh Khuê  

—————————————— 

THAM KHẢO DỊCH VỤ LIÊN QUAN:
1. ;

2. ;

3. ;

4. ;

5. ;

6. ;

Nếu bạn cần thêm thông tin xin đặt câu hỏi vào ô hỏi đáp bên dưới để chúng tôi có thể hỗ trợ cho bạn nhiều hơn. Xin chân thành cảm ơn.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *