GIỚI THIỆU LUẬT TẦN SỐ VÔ TUYẾN ĐIỆN

Xin chào bạn đến với chuyên trang tư vấn dịch vụ pháp luật. Sau đây là một số nội dung chỉ mang tính chất tham khảo. các bạn có thể đọc để hiểu thêm nhé.

Sóng vô tuyến điện được ứng dụng hết sức rộng rãi trong đời sống kinh tế – xã hội và an ninh quốc phòng, đặc biệt là các lĩnh vực viễn thông, phát thanh truyền hình, hàng không, hàng hải, khoa học, công nghiệp và y tế. Vì vậy, phổ tần số vô tuyến điện được hầu hết các nước trên thế giới thừa nhận là nguồn tài nguyên thiên nhiên hữu hạn và quý giá.

I. MỞ ĐẦU

Nhà nước Việt Nam đã nhận thức rất sớm tầm quan trọng của công tác quản lý tần số và thông tin vô tuyến điện. Từ năm 1959, Chính phủ đã ban hành các nghị định như Nghị định số 344/TTg về quản lý máy phát và Nghị định số 345/TTg về quản lý tần số vô tuyến điện.

Đầu những năm 90 của thế kỷ XX, thông tin vô tuyến điện trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng đã có sự phát triển rất mạnh mẽ. Việc thông tin di động tế bào thế hệ thứ hai được triển khai rộng rãi trên thế giới và bắt đầu đưa vào sử dụng ở Việt Nam đã đặt ra nhiều vấn đề mới về quản lý tần số vô tuyến điện. Năm 1997, Chính phủ ban hành Nghị định số 109/1997/NĐ-CP ngày 12/11/1997 về bưu chính viễn thông và Nghị định số 79/1997/NĐ-CP ngày 19/6/1997 về quy định xử phạt trong lĩnh vực quản lý nhà nước về Bưu chính Viễn thông và tần số vô tuyến điện. Hai văn bản pháp luật quan trọng này một mặt tạo điều kiện pháp lý cho việc sử dụng tần số vô tuyến điện rộng rãi hơn, mặt khác quy định các chế tài nghiêm ngặt để xử lý các vi phạm về quản lý tần số vô tuyến điện, nâng cao hiệu lực thực thi của cơ quan quản lý tần số vô tuyến điện, đảm bảo cho các hệ thống vô tuyến điện hoạt động hợp pháp, không bị can nhiễu có hại.

Năm 2002, Pháp lệnh Bưu chính viễn thông được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua. Tiếp theo đó là Nghị định số 24/2004/NĐ-CP ngày 14/01/2004 quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Bưu chính, viễn thông về tần số vô tuyến điện; Nghị định số 142/2004/NĐ-CP ngày 08/7/2004 của Chính phủ qui định về bưu chính, viễn thông và tần số vô tuyến điện; Nghị định số 75/2003/NĐ-CP ngày 26/6/2003 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của thanh tra bưu chính, viễn thông và công nghệ thông tin; Quyết định số 336/2005/QĐ-TTg ngày 16/12/2005 của Thủ tướng phê duyệt “Quy hoạch phổ tần số vô tuyến điện quốc gia”.v.v… cùng với hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật khác do Bộ Thông tin và Truyền thông hoặc liên Bộ ban hành đã tạo hành lang pháp lý quan trọng để thực hiện và nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý Nhà nước trong lĩnh vực tần số vô tuyến điện, từng bước nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Những văn bản quy phạm pháp luật được ban hành thể hiện những tư duy mới về quản lý tần số, tạo hành lang cho sự phát triển mạnh mẽ của thông tin vô tuyến điện và phát thanh truyền hình. Nhiều nội dung quan trọng như phân bổ băng tần cho an ninh quốc phòng, cấp phép băng tần, quản lý tương thích điện từ… được quy định, phản ánh yêu cầu quản lý tần số sâu rộng hơn và yêu cải cách thủ tục hành chính trong quản lý tần số để thúc đẩy mạnh mẽ hơn các ứng dụng của tần số vô tuyến điện. Những văn bản này đã góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển của các dịch vụ viễn thông, các ứng dụng sóng vô tuyến điện trong mọi mặt của đời sống xã hội. Năm 2006 đã chứng kiến sự phát triển bùng nổ của thông tin di động, với sự gia tăng thêm gần 10 triệu thuê bao; sự mở rộng vùng phủ sóng của phát thanh truyền hình số mặt đất và bắt đầu thử nghiệm truyền hình di động. Công nghệ truy cập vô tuyến băng rộng – WIMAX đã có những bước thử nghiệm ban đầu tại Việt Nam. Năm 2008, Dự án vệ tinh VINASAT-1 đã hoàn thành việc phóng vệ tinh lên vị trí quỹ đạo 1320 Đông.

>>

Thực hiện Nghị quyết số 27/2008/QH12 ngày 15 tháng 11 năm 2008 của Quốc hội khoá XII, kỳ họp thứ 4 về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2009, Chính phủ đã tổ chức, chỉ đạo việc xây dựng và trình Quốc hội dự án Luật Tần số vô tuyến điện. Quốc hội đã thảo luận, cho ý kiến tại hai kỳ họp và đã nhất trí thông qua Luật Tần số vô tuyến điện với đa số phiếu tán thành (435/437) tại phiên họp ngày 23/11/2009. Ngày 17/12/2009, Văn phòng Chủ tịch nước đã công bố Lệnh số 19/2009/L-CTN ngày 04 tháng 12 năm 2009 của Chủ tịch nước về Luật Tần số vô tuyến điện.

Luật Tần số vô tuyến điện có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2010. Các quy định về tần số vô tuyến điện của Pháp lệnh bưu chính, viễn thông số 43/2002/PL-UBTVQH10 hết hiệu lực kể từ ngày Luật Tần số vô tuyến điện có hiệu lực.

II. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT TẦN SỐ VÔ TUYẾN ĐIỆN

Tần số vô tuyến điện đang ngày càng được ứng dụng rộng rãi và có vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Việc xây dựng và ban hành Luật Tần số vô tuyến điện để điều chỉnh các hoạt động quản lý và sử dụng tần số là một yêu cầu khách quan dựa trên các cơ sở chính sau đây:

1. Sự phát triển bùng nổ của thông tin vô tuyến điện trong tất cả các lĩnh vực kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh làm cho nhu cầu sử dụng phổ tần số vô tuyến điện ngày càng cao, tần số vô tuyến điện ngày càng trở nên khan hiếm, cần được quản lý, sử dụng hiệu quả hơn.

Sự phát triển bùng nổ của thông tin vô tuyến ở Việt Nam trong thời gian qua thể hiện trên cả 3 phương diện dịch vụ, công nghệ và đối tượng sử dụng.

a) Sự phát triển nhanh chóng và ứng dụng rộng rãi các dịch vụ thông tin vô tuyến trong mọi mặt của đời sống xã hội và nhu cầu sử dụng tần số ngày càng cao, đòi hỏi phải có phương pháp tiếp cận mới trong chính sách, quy hoạch và phân bổ tần số vô tuyến điện.

Từ năm 1990 trở về trước, việc sử dụng các hệ thống thông tin vô tuyến và sử dụng phổ tần số vô tuyến điện (VTĐ) ở nước ta còn rất hạn chế, chủ yếu chỉ tập trung vào các hệ thống thông tin vô tuyến quân sự, các hệ thống phát thanh, truyền hình, một số hệ thống dùng cho thông tin hàng hải, hàng không.

Từ những năm 1990 trở lại đây, đặc biệt từ sau năm 2000, bên cạnh việc được sử dụng trong các lĩnh vực truyền thống nêu trên, các hệ thống thông tin vô tuyến đã phát triển hết sức nhanh chóng, được ứng dụng rộng rãi trong mọi mặt của đời sống xã hội: thông tin di động, truyền dẫn viba, thông tin vệ tinh; truyền hình tương tự, truyền hình số, truyền hình di động; các hệ thống bộ đàm dùng cho các tàu, thuyền của ngư dân, sân bay, taxi, bảo vệ, xây dựng, siêu thị, nhà hàng; các thiết bị công suất thấp dùng cho điều khiển mô hình, thiết bị nhận dạng vô tuyến, thiết bị y tế, điện thoại kéo dài, thiết bị đo và điều khiển từ xa, thiết bị giám sát, cảnh báo, thiết bị an ninh v.v…

Trong lĩnh vực viễn thông, sự xuất hiện của các hệ thống điện thoại di động đã làm thay đổi hoàn toàn thị trường này. Tính đến cuối tháng 6/2009, số lượng thuê bao điện thoại di động của Việt Nam là hơn 80 triệu, gấp gần 8 lần số thuê bao điện thoại cố định. Số lượng các tuyến viba truyền dẫn dùng cho các mạng viễn thông tới nay cũng tăng 10 lần so với năm 2004. Chỉ riêng năm 2008, đã có hơn 5.000 tuyến vi ba yêu cầu cấp phép sử dụng. Các băng tần cho thông tin di động thế hệ thứ hai – 2G và thế hệ thứ ba – 3G đã được cấp phép sử dụng hết, các vi ba truyền dẫn đã phải sử dụng đến băng tần rất cao.

Tháng 4 năm 2008, vệ tinh viễn thông đầu tiên của nước ta Vinasat-1 được đưa vào sử dụng, đánh dấu mốc quan trọng trong việc sử dụng tần số VTĐ và quỹ đạo vệ tinh của Việt Nam.

Trong lĩnh vực phát thanh truyền hình, số lượng các đài phát thanh, truyền hình được cấp phép sử dụng tần số đến cuối năm 2008 là hơn 2200 đài, gấp 3 lần so với năm 2000. Ngoài ra, hiện nay còn có hàng ngàn các hệ thống truyền thanh vô tuyến đang được sử dụng tại các phường, xã trong cả nước. Dải tần số VTĐ dành cho phát thanh, truyền hình đã trở nên hết sức chật chội. Ở nhiều khu vực không có khả năng ấn định và cấp phát thêm tần số cho truyền hình.

b) Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin vô tuyến cho phép hội tụ công nghệ, hội tụ dịch vụ, đòi hỏi thay đổi cơ chế, chính sách trong quản lý và sử dụng tần số vô tuyến điện.

Các công nghệ thông tin di động, kể cả các công nghệ truy cập băng rộng xuất hiện với chu kỳ ngày càng nhanh. Các công nghệ vô tuyến băng thông rộng có thể cung cấp rất nhiều dịch vụ, ứng dụng, không chỉ đơn thuần là thoại, mà là internet di động, truyền hình di động. Điều đó đặt ra các yêu cầu mới về quy hoạch và quản lý tần số VTĐ, vừa tạo điều kiện cho việc triển khai ứng dụng nhanh các công nghệ tiên tiến, vừa đảm bảo hiệu quả của việc sử dụng phổ tần số VTĐ cho cả hiện tại và tương lai.

Sự phát triển của các công nghệ vô tuyến, đặc biệt là công nghệ số cũng đang diễn ra rất nhanh chóng, trong lĩnh vực phát thanh truyền hình, hàng không, hàng hải, giao thông đường bộ, dự báo thời tiết. Tuy nhiên, tình trạng quy hoạch phải phụ thuộc nhiều vào hiện trạng như hiện nay đã làm hạn chế tốc độ triển khai ứng dụng công nghệ mới, đẩy nhanh số hoá truyền hình.

c) Đối tượng sử dụng thiết bị vô tuyến điện ngày càng đa dạng và sự gia tăng các tổ chức, doanh nghiệp tham gia thị trường thông tin vô tuyến, dẫn đến kỷ luật và an toàn thông tin trong lĩnh vực tần số vô tuyến điện diễn biến phức tạp hơn, vì vậy cần có những phương thức quản lý, cấp phép, kiểm tra, kiểm soát tần số VTĐ hiệu quả và phù hợp hơn.

Cùng với việc được ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, đối tượng sử dụng thiết bị vô tuyến điện từ việc chỉ giới hạn trong một số tổ chức, doanh nghiệp của nhà nước trước đây đã và đang được mở rộng sang các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân thuộc đủ các thành phần kinh tế.

Trong các lĩnh vực đem lại lợi ích kinh tế cao, đồng thời cũng là khu vực sử dụng nhiều tần số vô tuyến điện như thông tin di động, phát thanh truyền hình, ngày càng có nhiều tổ chức, doanh nghiệp tham gia. Trong lĩnh vực viễn thông, nếu như trước năm 2000 gần như chỉ có Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT), thì nay Việt Nam đã có tới 07 nhà cung cấp dịch vụ điện thoại di động.

Trong lĩnh vực phát thanh truyền hình, ngoài Đài truyền hình Việt Nam, đài PTTH tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nay đã có thêm Tổng công ty truyền thông đa phương tiện được phép triển khai dịch vụ truyền hình.

Với sự tham gia của nhiều thành phần, đối tượng trong hoạt động khai thác và sử dụng tần số VTĐ, tình hình can nhiễu và an toàn thông tin vô tuyến điện cũng có những diễn biến phức tạp đòi hỏi phải tăng cường năng lực của cơ quan quản lý tần số, đặc biệt là tổ chức thanh tra chuyên ngành với các chế tài xử phạt đủ mạnh.

2. Sự thay đổi của thị trường thông tin vô tuyến điện từ độc quyền sang cạnh tranh đòi hỏi phải có các cơ chế quản lý tài nguyên tần số phù hợp như cơ chế cấp phép cạnh tranh đối với các băng tần có giá trị kinh tế cao, nhu cầu sử dụng lớn; cơ chế chuyển nhượng giấy phép, cơ chế đền bù trong trường hợp bị thu hồi giấy phép trước thời hạn, cho thuê cho mượn thiết bị và giấy phép…

Thị trường thông tin vô tuyến điện đã có nhiều thay đổi, chuyển từ độc quyền sang cạnh tranh, do vậy đòi hỏi phải có các cơ chế quản lý tần số vô tuyến điện mới, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm đảm bảo sử dụng hiệu quả phổ tần. Việc cấp phép tần số đối với các băng tần có thể đem lại giá trị kinh tế cao không thể thực hiện theo nguyên tắc đến trước, cấp trước thông thường mà phải có các phương pháp mới bảo đảm tính cạnh tranh, minh bạch và bình đẳng giữa các doanh nghiệp, đồng thời cần khẳng định quyền của doanh nghiệp đối với giấy phép được cấp thông qua phương thức thị trường bằng cơ chế chuyển nhượng quyền sử dụng giấy phép.

Các chính sách về đền bù trong trường hợp tổ chức, cá nhân bị thu hồi giấy phép tần số trước thời hạn cũng cần được đổi mới, đáp ứng yêu cầu điều chỉnh, phân bổ lại tần số phục vụ cho việc phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh; hạn chế việc sử dụng các băng tần quý hiếm cho các công nghệ lạc hậu kéo dài gây lãng phí tần số.

Việc cho thuê, cho mượn thiết bị vô tuyến điện đối với một số loại hình thông tin vô tuyến điện (như thông tin vô tuyến điện trên tàu biển, tàu bay, thông tin vô tuyến điện nghiệp dư) cũng cần phải đặt ra, tạo điều kiện thông thoáng, linh hoạt hơn cho tổ chức, doanh nghiệp, phù hợp với các hoạt động thương mại trong nền kinh tế thị trường.

3. Văn bản quy phạm pháp luật hiện hành chưa quy định hoặc quy định chưa rõ trách nhiệm của bộ, ngành, của người sử dụng trong quản lý và sử dụng tần số vô tuyến điện như trách nhiệm đảm bảo an toàn bức xạ điện; trách nhiệm trong quản lý các thiết bị điện, điện tử có bức xạ sóng vô tuyến điện; trách nhiệm trong việc đảm bảo hành lang kỹ thuật cho hoạt động của các đài vô tuyến điện quan trọng…

Từ năm 2002 đến nay, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực vô tuyến điện đã không ngừng được hoàn thiện tạo cơ sở pháp lý cho việc quản lý, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước về tần số vô tuyến điện.

Pháp lệnh Bưu chính viễn thông (trong đó có nội dung quy định về tần số vô tuyến điện) được ban hành năm 2002, cùng với các Nghị định số 24/2004/NĐ-CP ngày 14/01/2004 về tần số vô tuyến điện; Nghị định số 142/2004/NĐ-CP ngày 08/7/2004 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông và tần số vô tuyến điện, Nghị định số 115/2006/NĐ-CP ngày 04/10/2006 về tổ chức và hoạt động của thanh tra bưu chính, viễn thông và công nghệ thông tin, v.v.. đã thể hiện được những tư duy mới về quản lý tần số VTĐ như phân bổ băng tần cho an ninh quốc phòng, cấp phép băng tần, quản lý tương thích điện từ…, phản ánh được yêu cầu quản lý sâu rộng hơn và yêu cầu cải cách thủ tục hành chính trong quản lý tần số VTĐ.

Tuy nhiên còn tồn tại một số bất cập trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về tần số vô tuyến điện chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển và hội nhập quốc tế, như:

– Văn bản hiện hành chưa quy định rõ trách nhiệm của các bộ ngành, của người sử dụng trong việc quản lý, sử dụng nhằm bảo đảm an toàn bức xạ vô tuyến điện đối với sức khoẻ người dân. Trách nhiệm ban hành các quy chuẩn kỹ thuật, ban hành các danh mục thiết bị vô tuyến điện, đài vô tuyến điện phải kiểm định về bảo đảm an toàn bức xạ vô tuyến điện cũng như việc thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực này đều chưa được xác định rõ trong văn bản pháp quy hiện hành.

– Việc quản lý tương thích điện từ đối với các thiết bị điện, điện tử cũng cần được phân công rõ ràng trách nhiệm của các bộ ngành, của Bộ thông tin và truyền thông, Bộ Khoa học và Công nghệ theo hướng, đối với các sản phẩm hàng hoá thuộc quản lý chuyên ngành của Bộ thông tin và Truyền thông (như các thiết bị vô tuyến điện, thiết bị viễn thông, thiết bị công nghệ thông tin, thiết bị ứng dụng sóng vô tuyến điện trong khoa học, công nghiệp, y tế) thì Bộ Thông tin và Truyền thông quản lý về tương thích điện từ, bảo đảm đơn giản thủ tục và thống nhất một đầu mối quản lý; Những thiết bị điện, điện tử không thuộc sự quản lý của Bộ Thông tin và Truyền thông thì Bộ Khoa học và Công nghệ là đầu mối quản lý về tương thích điện từ.

– Để bảo đảm hành lang an toàn kỹ thuật của các đài vô tuyến điện (đặc biệt là đài định hướng sóng vô tuyến điện, đài thông tin vệ tinh,…) không bị che chắn sóng bởi các cấu trúc, công trình xung quanh, làm ảnh hưởng đến tính năng hoạt động của đài, cần thiết phải có các quy định về hành lang an toàn kỹ thuật của đài vô tuyến điện.

– Do sự phát triển và ứng dụng ngày càng rộng rãi các thiết bị vô tuyến điện không chỉ trong lĩnh vực viễn thông mà trong mọi mặt của đời sống xã hội nên các mối quan hệ, xung đột lợi ích liên quan đến việc sử dụng tần số vô tuyến điện ngày càng phức tạp. Điều này đặt ra yêu cầu cần xác định rõ hơn trách nhiệm của các bộ, ngành trong quản lý phổ tần số VTĐ và thiết bị vô tuyến điện, trong đó có việc sản xuất, nhập khẩu, lưu thông thiết bị vô tuyến điện, cũng như trách nhiệm của người sử dụng.

– Lĩnh vực quốc phòng, an ninh là hai lĩnh vực sử dụng một lượng lớn phổ tần số vô tuyến điện. Tuy nhiên, cho tới nay trong Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông, cũng như Nghị định số 24/2004/NĐ-CP ngày 14/01/2004 vấn đề này vẫn còn chưa được quy định chặt chẽ, nên quá trình quản lý, phối hợp sử dụng tần số vô tuyến điện giữa các Bộ, ngành còn gặp khó khăn.

4. Việc gia tăng nhu cầu sử dụng tần số vô tuyến điện và quỹ đạo vệ tinh địa tĩnh của các nước do sự bùng nổ thông tin vô tuyến đòi hỏi tăng cường hơn nữa hoạt động hợp tác quốc tế để bảo vệ lợi ích và chủ quyền quốc gia về tần số vô tuyến điện và quỹ đạo vệ tinh

Thông tin qua vệ tinh đã chứng tỏ được tính ưu việt qua thực tế sử dụng cùng với lợi ích thu được do thông tin qua vệ tinh mang lại đã làm nhu cẩu sử dụng tần số vô tuyến điện và quỹ đạo vệ tinh địa tĩnh trên thế giới ngày càng tăng mạnh.

Nhờ tổ chức tốt hoạt động phối hợp quốc tế trong quản lý tần số, Việt Nam đã đăng ký được quyền sử dụng một số băng tần số tại vị trí quỹ đạo 132°Đông và một số quỹ đạo khác, tạo tiền đề để phóng thành công vệ tinh Vinasat-1, cũng như dự án tiếp theo. Ngoài ra, công tác đăng ký tần số VTĐ quốc tế cho các đài hàng không, hàng hải và đài truyền hình đã được thực hiện thường xuyên nhằm đảm bảo vệ hoạt động các đài này, cũng như có thêm được tần số VTĐ giành cho Việt Nam.

Tuy nhiên, các hoạt động trên chủ yếu do cơ quan quản lý nhà nước tiến hành. Để bảo vệ tốt hơn lợi ích về tần số vô tuyến điện của Việt Nam, kinh nghiệm từ dự án Vinasat cũng như kinh nghiệm của các nước cho thấy cần thúc đẩy hơn nữa vai trò, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân sử dụng tần số tuyến điện trong việc tham gia các hoạt động hợp tác, đăng ký tần số quốc tế để bảo vệ lợi ích quốc gia về tần số vô tuyến điện và quỹ đạo vệ tinh.

Việc nghiên cứu xây dựng luật chuyên ngành về Tần số vô tuyến điện là hết sức cần thiết, góp phần thực hiện Kế hoạch số 900/UBTVQH11 ngày 21/3/2007 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến 2020, tạo điều kiện thuận lợi nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý Nhà nước về tần số vô tuyến điện, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và đảm bảo quốc phòng – an ninh; đảm bảo khẳng định chủ quyền quốc gia trong việc sử dụng tần số vô tuyến điện và quĩ đạo vệ tinh.

III. MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO TRONG VIỆC XÂY DỰNG DỰ ÁN LUẬT TẦN SỐ VÔ TUYẾN ĐIỆN

1. Mục tiêu:

a) Hoàn thiện nội dung và nâng cao tính pháp lý về hoạt động quản lý, sử dụng tần số vô tuyến điện theo hướng đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ, khả thi; khắc phục những mặt còn hạn chế từ thực tế quản lý tần số vô tuyến điện trong thời gian qua.

b) Đảm bảo nguyên tắc công khai, minh bạch từ việc xây dựng quy hoạch, ban hành, áp dụng các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật đến việc cấp phép, thanh tra, kiểm tra sự tuân thủ pháp luật. Từng bước áp dụng hình thức quản lý việc sử dụng tần số vô tuyến điện dựa trên cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm đảm bảo sử dụng hiệu quả phổ tần cao nhất.

c) Tăng cường hơn nữa hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về tần số vô tuyến điện; bảo vệ lợi ích quốc gia về tần số vô tuyến điện và quỹ đạo vệ tinh.

2. Quan điểm chỉ đạo:

a) Xác lập vai trò quản lý nhà nước về tần số vô tuyến điện. Thể chế hoá kịp thời các đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, phù hợp với Hiến pháp và các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập.

b) Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước, công khai, minh bạch, chính xác, đơn giản và tạo thuận lợi nhất cho cá nhân, tổ chức xin cấp phép sử dụng tần số vô tuyến điện.

c) Kế thừa và hoàn thiện các quy định hiện hành còn phù hợp với thực tiễn, giải quyết những bất cập để đáp ứng yêu cầu thực tế và xu hướng phát triển trong tương lai.

d) Tập trung qui định các vấn đề về nguyên tắc, các chính sách vĩ mô trong các quan hệ về quản lý và sử dụng tần số vô tuyến điện và quỹ đạo vệ tinh nhằm phát triển thông tin vô tuyến điện theo hướng hiện đại, đồng bộ và ổn định lâu dài.

đ) Minh bạch hoá các chính sách về quản lý, cấp phép tần số vô tuyến điện theo cam kết của Việt Nam khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Tham khảo, chọn lọc kinh nghiệm của các nước có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh về tần số vô tuyến điện.

IV. NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA LUẬT TẦN SỐ VÔ TUYẾN ĐIỆN

1. Nội dung cơ bản của Luật tần số vô tuyến điện

Luật Tần số vô tuyến điện gồm 8 chương, 49 điều, cụ thể là:

Chương I: Những quy định chung (9 điều, từ Điều 1 đến Điều 9)

Nội dung của Chương này quy định những vấn đề về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, giải thích từ ngữ, chính sách của nhà nước về tần số vô tuyến điện, trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về tần số vô tuyến điện, cơ quan quản lý chuyên ngành, thanh tra chuyên ngành về tần số vô tuyến điện, hợp tác quốc tế và các hành vi bị nghiêm cấm.

Phạm vi điều chỉnh: Luật này quy định về:

+ Quản lý, sử dụng tần số vô tuyến điện, thiết bị vô tuyến điện, quỹ đạo vệ tinh (các vấn đề về quy hoạch; cấp giấy phép sử dụng tần số vô tuyến điện; thanh tra, kiểm tra, kiểm soát tần số vô tuyến điện, xử lý nhiễu có hại, xử lý vi phạm; đăng ký, phối hợp quốc tế về tần số vô tuyến điện và quỹ đạo vệ tinh; quản lý và sử dụng tần số vô tuyến điện phục vụ mục đích quốc phòng, an ninh);

+ Quản lý chất lượng phát xạ vô tuyến điện, an toàn bức xạ vô tuyến điện và tương thích điện từ;

+ Quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân tham gia quản lý, sử dụng tần số vô tuyến điện.

Đối tượng áp dụng: Luật này áp dụng đối với tổ chức, cá nhân tham gia quản lý, sử dụng tần số vô tuyến điện tại Việt Nam.

Chương II: Quy hoạch tần số vô tuyến điện (3 điều, từ Điều 10 đến Điều 12).

Nội dung của Chương này quy định về việc nguyên tắc xây dựng, phê duyệt quy hoạch tần số vô tuyến điện; các loại quy hoạch tần số vô tuyến điện; thẩm quyền phê duyệt và thực hiện quy hoạch tần số vô tuyến điện; thu hồi quyền sử dụng tần số vô tuyến điện để thực hiện quy hoạch.

Chương III: Quản lý chất lượng phát xạ vô tuyến điện, an toàn bức xạ vô tuyến điện và tương thích điện từ (3 điều, từ Điều 13 đến Điều 15).

Nội dung chương này quy định về trách nhiệm của Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Khoa học Công nghệ, của tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu, sử dụng các loại thiết bị vô tuyến điện, thiết bị ứng dụng sóng vô tuyến điện, thiết bị điện, điện tử trong việc bảo đảm chất lượng phát xạ vô tuyến điện, an toàn bức xạ vô tuyến điện, tương thích điện từ.

Chương IV: Cấp giấy phép và sử dụng tần số vô tuyến điện (18 điều, từ Điều 16 đến Điều 33).

Chương này quy định về: các loại giấy phép và thời hạn giấy phép; nguyên tắc cấp phép và các phương thức cấp giấy phép sử dụng tần số vô tuyến điện; đối tượng và điều kiện được cấp giấy phép; vấn đề gia hạn và thu hồi giấy phép; các trường hợp được chuyển nhượng quyền sử dụng tần số vô tuyến điện, được cho thuê, cho mượn thiết bị vô tuyến điện, được miễn giấy phép, trường hợp phải dùng chung tần số vô tuyến điện; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân được cấp phép sử dụng tần số vô tuyến điện; trách nhiệm nộp phí sử dụng tần số vô tuyến điện, nguyên tắc xác lập phí; vấn đề chứng chỉ vô tuyến điện viên và sử dụng tần số vô tuyến điện trong trường hợp khẩn cấp.

Chương V: Kiểm tra, kiểm soát tần số vô tuyến điện và xử lý nhiễu có hại (7 điều, từ Điều 34 đến Điều 40).

Nội dung của chương này quy định về quyền của cơ quan nhà nước trong việc kiểm tra, kiểm soát tần số vô tuyến điện, xử lý nhiễu có hại; đối tượng chịu sự kiểm tra, kiểm soát; các hình thức kiểm tra, các biện pháp hạn chế nhiễu có hại, nguyên tắc, thủ tục xử lý nhiễu có hại; vấn đề đảm bảo hành lang an toàn kỹ thuật của đài vô tuyến điện.

Chương VI: Đăng ký, phối hợp quốc tế về tần số vô tuyến điện, quỹ đạo vệ tinh (4 điều, từ Điều 41 đến Điều 44).

Nội dung của chương này quy định về các trường hợp đăng ký, phối hợp quốc tế về tần số vô tuyến điện, quỹ đạo vệ tinh; trách nhiệm của các bộ, của người sử dụng tần số vô tuyến điện trong thực hiện việc đăng ký và phối hợp quốc tế về tần số, quỹ đạo vệ tinh.

Chương VII: Quản lý và sử dụng tần số vô tuyến điện phục vụ mục đích quốc phòng, an ninh (3 điều, từ Điều 45 đến Điều 47).

Nội dung của Chương này quy định về phân bổ tần số vô tuyến điện phục vụ mục đích quốc phòng, an ninh; trách nhiệm của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an trong việc quản lý, sử dụng tần số vô tuyến điện phục vụ mục đích quốc phòng, an ninh; quản lý và sử dụng thiết bị gây nhiễu.

Chương này quy định rõ trách nhiệm của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an trong việc chỉ định cơ quan chuyên trách trực thuộc Bộ, giúp Bộ trưởng tổ chức quản lý, kiểm tra, kiểm soát việc sử dụng tần số của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an. Quy định này bảo đảm việc quản lý thống nhất việc sử dụng tần số vô tuyến điện của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc phối hợp quản lý tần số giữa ba khối dân sự – quốc phòng – an ninh.

Chương VIII: Điều khoản thi hành (2 điều, Điều 48 và Điều 49)

Chương này quy định thời hạn có hiệu lực của Luật và việc hướng dẫn thi hành Luật.

Luật Tần số vô tuyến điện có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2010. Các quy định về tần số vô tuyến điện của Pháp lệnh bưu chính, viễn thông số 43/2002/PL-UBTVQH10 hết hiệu lực kể từ ngày Luật này có hiệu lực.

2. Những nội dung mới quan trọng của Luật tần số vô tuyến điện

2.1. Thúc đẩy sự phát triển của thông tin vô tuyến điện, thúc đẩy ứng dụng các công nghệ hiện đại sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên tần số

Các quy định mới về quy hoạch tần số (điều 10,11,12), nguyên tắc cấp phép sử dụng tần số (điều 17) sẽ tạo môi trường pháp lý thuận lợi hơn cho việc ứng dụng các công nghệ vô tuyến mới có hiệu quả sử dụng tần số cao hơn, dành băng tần cho các công nghệ và dịch vụ mang lại lợi ích kinh tế xã hội nhiều hơn cho cộng đồng, đồng thời cũng sẽ hạn chế việc sử dụng băng tần quý hiếm cho các công nghệ lạc hậu kéo dài gây lãng phí tần nguồn tài nguyên tần số.

2.2. Áp dụng các phương thức quản lý tần số mới dựa trên cơ chế kinh tế thị trường thông qua việc thi tuyển, đấu giá quyền sử dụng tần số (Điều 18, Điều 24).

Luật Tần số vô tuyến điện quy định hai hình thức cấp phép mới, đó là đấu giá, thi tuyển quyền sử dụng tần số vô tuyến điện (đối với những băng tần có giá trị kinh tế cao, nhu cầu sử dụng vượt quá khả năng đáp ứng) để từng bước thiết lập phương thức cấp phép tần số dựa theo cơ chế thị trường thay vì việc cấp phép theo cơ chế “cấp – phát”, “đến trước – cấp trước” như trước đây. Với các hình thức cấp phép này sẽ cho phép lựa chọn những doanh nghiệp có khả năng khai thác, sử dụng một cách tốt nhất phổ tần số vô tuyến điện, mang lại lợi ích tối đa cho người tiêu dùng và toàn thể cộng đồng.

Với những đối tượng được cấp phép thông qua hình thức đấu giá tần số thì được phép chuyển nhượng quyền sử dụng tần số vô tuyến điện nhằm bảo đảm quyền lợi của doanh nghiệp và lợi ích người tiêu dùng. Thủ tướng Chính phủ quyết định cụ thể về băng tần được đem ra đấu giá, thi tuyển quyền sử dụng.

2.3. Đẩy mạnh cải cách hành chính, đơn giản thủ tục

Để đẩy mạnh cải cách hành chính và đơn giản thủ tục Luật quy định rõ phương thức cấp phép, đối tượng được cấp phép, điều kiện được cấp phép, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng tần số vô tuyến điện, các trường hợp bị thu hồi giấy phép do vi phạm pháp luật về tần số vô tuyến điện (các điều 18, 19, 20, 21, 22, 23), đồng thời cho phép một số trường hợp được sử dụng mà không cần giấy phép tần số (Điều 27) hoặc cho phép cho thuê, cho mượn thiết bị trong một số trường hợp (Điều 25).

2.4. Tăng cường bảo đảm an toàn bức xạ vô tuyến điện.

Luật Tần số vô tuyến điện đưa ra các qui định về việc tuân thủ các qui chuẩn an toàn bức xạ vô tuyến điện và yêu cầu phải kiểm định các công trình phát sóng VTĐ trước khi đưa vào sử dụng nhằm bảo đảm mức độ an toàn về bức xạ điện từ cần đạt được. Quy định trách nhiệm của cơ quan quản lý, trách nhiệm của nhà sản xuất, nhập khẩu, trách nhiệm của người sử dụng trong vấn đề đảm bảo an toàn bức xạ điện từ (Điều 14).

2.5. Quy định về hành lang an toàn kỹ thuật của đài vô tuyến điện (Điều 40). Để đảm bảo cho các đài vô tuyến điện (đặc biệt là đài định hướng sóng vô tuyến điện, đài thông tin vệ tinh…) không bị các cấu trúc, công trình xung quanh che chắn sóng, làm ảnh hưởng đến tính năng hoạt động của đài, Luật quy định về nguyên tắc và giao trách nhiệm cho Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Xây dựng, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an trong việc quy định về hành lang an toàn kỹ thuật của đài vô tuyến điện và danh sách đài vô tuyến điện có hành lang an toàn kỹ thuật được bảo đảm.

6. Tăng cường bảo vệ chủ quyền, quyền lợi quốc gia về tần số vô tuyến điện và quỹ đạo vệ tinh.

Các quy định về đăng ký, phối hợp tần số quốc tế và quỹ đạo vệ tinh, về hợp tác quốc tế (các điều 8, 41, 42, 43 và 44) xác định rõ trách nhiệm của các doanh nghiệp, của cơ quan quản lý chuyên ngành tần số vô tuyến điện trong việc đăng ký và phối hợp quốc tế về tần số và quỹ đạo vệ tinh . Đây là cơ sở để huy động rộng rãi các đối tượng tham gia, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc đấu tranh, bảo vệ chủ quyền, quyền lợi của Việt Nam về tần số và quỹ đạo vệ tinh.

7. Quy định rõ hơn về Cơ quan quản lý chuyên ngành tần số vô tuyến điện, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an có cơ quan chuyên trách quản lý tần số vô tuyến điện phục vụ mục đích quốc phòng, an ninh (Điều 6 và 46).

IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN

Luật Tần số vô tuyến điện sẽ có hiệu lực từ ngày 01/07/2010, để Luật sớm đi vào cuộc sống một cách hiệu quả thì các công việc cần tập trung triển khai là:

1. Xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành Luật kịp thời và đồng bộ.

Luật Tần số vô tuyến điện đã quy định khá chi tiết và kế thừa được nhiều nội dung của pháp luật hiện hành còn phù hợp, do vậy khi Luật có hiệu lực, sẽ xây dựng Quyết định của Thủ tướng Chính phủ và một số Thông tư của Bộ Thông tin và Truyền thông, Thông tư liên tịch. Cụ thể là:

+ Quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định chi tiết về đấu giá, chuyển quyền sử dụng tần số vô tuyến điện;

+ Các Thông tư hướng dẫn của Bộ Thông tin và Truyền thông quy định chi tiết các vấn đề liên quan đến cấp phép, thi tuyển quyền sử dụng tần số vô tuyến điện, sử dụng chung tần số, cho thuê, cho mượn thiết bị vô tuyến điện, kiểm tra tần số vô tuyến điện;

+ Thông tư liên tịch về hành lang an toàn kỹ thuật đối với các đài vô tuyến điện cần được bảo vệ; Thông tư liên tịch hướng dẫn cụ thể thủ tục ký kết, phê duyệt các thoả thuận quốc tế về tần số vô tuyến điện; Thông tư liên tịch về việc cấp phép tần số cho đài vô tuyến điện của cơ quan đại diện ngoại giao.

2. Tổ chức tuyên truyền, phổ biến Luật tần số vô tuyến điện đến các cơ quan, tổ chức, cá nhân để nâng cao hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật về tần số vô tuyến điện.

Liên hệ sử dụng dịch vụ đăng ký bảo hộ tại Việt Nam.

Quý khách hàng có nhu cầu sử dụng dịch vụ vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi:

CÔNG TY LUẬT TNHH MINH KHUÊ

Điện thoại yêu cầu dịch vụ luật sư Sở hữu trí tuệ, gọi :

Gửi thư tư vấn hoặc yêu cầu dịch vụ qua Email: 

Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!

Trân trọng./.

Bộ phận luật sư Sở hữu Trí tuệ – Minh Khuê 

————————————————

THAM KHẢO DỊCH VỤ LIÊN QUAN:
1. ;

2. ;

3. ;

4. ;

5. ;

6. ;

Nếu bạn cần thêm thông tin xin đặt câu hỏi vào ô hỏi đáp bên dưới để chúng tôi có thể hỗ trợ cho bạn nhiều hơn. Xin chân thành cảm ơn.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *