Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa tại EU

Xin chào bạn đến với chuyên trang tư vấn dịch vụ pháp luật. Sau đây là một số nội dung chỉ mang tính chất tham khảo. các bạn có thể đọc để hiểu thêm nhé.

Quan hệ kinh tế giữa Việt nam và các nước thành viên EU (Châu âu nói chung) không ngừng được mở rộng và phát triển, cùng với đó là việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa tại Thị trường này cũng được nhiều doanh nghiệp đặc biệt quan tâm. xin giấy phép tư vấn và phân tích cụ thể:

Mục lục bài viết

1. Thủ tục đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa tại EU

Đơn CTM được xử lý như thế nào? Đơn sau khi nộp tại OHIM sẽ được cơ quan này xét nghiệm về hình thức. Nếu đơn có đủ các thông tin và tài liệu trên, ngày nộp đơn được ghi nhận. Sau đó đơn được chuyển sang xét nghiệm nội dung.

Trong giai đoạn xét nghiệm nội dung, nhãn hiệu trong đó chỉ được xét nghiệm trên cơ sở tuyệt đối tức là đánh giá về khả năng phân biệt của nhãn hiệu, ví dụ nhãn hiệu có thuộc các dấu hiệu loại trừ theo quy định của pháp luật hay không; nhãn hiệu có phải là một thuật ngữ chung theo các ngôn ngữ của cộng đồng cho hàng hoá và dịch vụ hay không; nhãn hiệu có gây nhầm lẫn cho công chúng về bản chất, nguồn gốc địa lý của hàng hoá và dịch vụ mang nhãn hiệu hay không.

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa tại EU

Chú ý: Trong giai đoạn xét nghiệm nội dung và trước khi công bố đơn trên công báo CTM của OHIM, OHIM không tự động xét nghiệm nhãn hiệu trên cơ sở tương đối tức là không xem xét xem nhãn hiệu có trùng lặp hoặc tương tự gây nhầm lẫn với các nhãn hiệu đã được đăng ký trước hoặc nộp đơn trước hay không. Việc xét nghiệm này chỉ được thực hiện trên cơ sở yêu cầu của bên thứ ba khi thực hiện thủ tục phản đối đơn, hoặc thủ tục huỷ bỏ sau khi nhãn hiệu đã được đăng ký.

Nếu nhãn hiệu hoàn toàn có khả năng phân biệt, và có thể được sử dụng như một nhãn hiệu hang hoá, tức là cơ quan OHIM không thấy có lý do để từ chối đơn trên cơ sở tuyệt đối, thì đơn đăng ký nhãn hiệu sẽ được công bố trên Công báo CTM bằng các ngôn ngữ chính thức của Cộng đồng Châu Âu trong vòng 3 tháng để các bên thứ ba có quyền lợi và lợi ích liên quan có thể phản đối.

Nếu không có bên thứ ba nào phản đối đơn trong thời hạn cho phép, OHIM sẽ đăng ký nhãn hiệu.

Nếu đơn CTM bị từ chối ở một trong các nước thành viên thì xử lý thế nào?

Trong quá trình đăng ký, chỉ cần một trong 25 nước từ chối bảo hộ thì việc đăng ký nhãn hiệu thông qua hệ thống đăng ký CTM coi như không thành. Lúc này, nếu chủ sở hữu vẫn muốn đăng ký nhãn hiệu vào những nước thành viên khác không từ chối bảo hộ nhãn hiệu thì có thể chuyển đơn đăng ký CTM thành nhiều đơn đăng ký quốc gia vào mỗi nước đó, và ngày nộp đơn quốc gia vẫn được tình theo ngày nộp đơn của đơn CTM.

LIÊN HỆ NGAY VỚI CHÚNG TÔI ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN HỖ TRỢ!

Rất mong nhận được sự hợp tác của Quý khách hàng! Trân trọng./.

>> Tham khảo dịch vụ pháp lý liên quan:

2. Qui chế nền kinh tế phi thị trường trong pháp luật chống bán phá giá của EU

Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới từ năm 2007 và chấp nhận thời hạn 12 năm cho quy chế nền kinh tế phi thị trường kể từ ngày gia nhập và không muộn hơn 31/12/2018. Hệ quả trực tiếp cam kết này đó là việc áp dụng quy chế nền kinh tế phi thị trường trong điều tra chống bán phá giá đối với hàng hóa của Việt Nam trên thị trường thế giới.

Tuy nhiên trước đó hàng hóa của Việt Nam đã phải đối mặt với quy chế nền kinh tế phi thị trường trong quá trình điều tra chống bán phá của US và EU.

Bài viết này nghiên cứu các quy định của EU về chống bán phá giá đối với các nước có nền kinh tế thị trường qua việc phân tích các vụ điều tra đã thực hiện đối với hàng hóa của Việt Nam, cụ thể là chốt cải thép không gỉ (2004), xe đạp (2005) và giày mũ da (2006). Từ thực tiễn giải quyết các vụ kiện chống bán phá giá đối với Việt Nam của EU, bài viết được hy vọng là làm rõ các vấn đề pháp lý mà các doanh nghiệp Việt Nam nên lưu tâm khi tham gia các vụ kiện chống bán phá giá cũng như khi đưa ra các phản biện hợp lý và trong một chừng mực nào đó phù hợp với các tiêu chí xem xét của EU.

Quy chế nền kinh tế phi thị trường áp dụng trong điều tra chống bán phá giá được nêu tại Điều 2(7) Quy định của Hội đồng số 384/96 ngày 22/12/1995 về việc bảo vệ chống lại hàng nhập khẩu bán phá giá từ các quốc gia không phải là thành viên của Cộng đồng Châu Âu (sau đây gọi là Quy định số 384/96). Đến Quy định của Hội đồng số 905/98 ngày 27/4/1998 sửa đổi Quy định của Hội đồng số 384/96, các quy chế đối với nền kinh tế thị trường đã được bổ sung thêm với việc mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp được áp dụng quy chế điều tra thông thường trong trường hợp đáp ứng các điều kiện nhất định. Và trong Quy định này, Việt Nam có tên trong danh sách các quốc gia có nền kinh tế phi thị trường đang trong quá trình chuyển đổi. Tiếp theo, ngày 5/11/2002, Quy định của Hội đồng số 1972/2002 sửa đổi Quy định số 384/96 quy định về nguyên tắc thuế chống bán phá giá sẽ được áp dụng theo mức phù hợp cho mọi vụ việc, trên cơ sở không phân biệt đối xử đối với hàng hóa nhập khẩu từ các nguồn khác nhau bị kết luận là có bán phá giá và gây thiệt hại. Tuy nhiên nếu như doanh nghiệp thuộc các quốc giá có nền kinh tế phi thị trường đáp ứng được các yêu cầu theo quy định thì sẽ được áp mức thuế riêng cho từng doanh nghiệp (gọi là individual treatment – IT).

Qui chế nền kinh tế phi thị trường trong pháp luật chống bán phá giá của EU và thực tiễn áp dụng trong các vụ kiện đối với hàng hóa Việt Nam

gọi:

Như vậy, cho đến nay, các quy định đặc thù về chống bán phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu từ các quốc gia có nền kinh tế phi thị trường được quy định tại các Điều 2(7) và Điều 9(5) trong Quy định số 1225/2009 ngày 30/11/2009 về chống bán phá giá của EU. Theo đó quy chế gồm có các nội dung cơ bản sau:

– Trường hợp hàng chống bán phá giá có nguồn gốc từ nền kinh tế phi thị trường thì giá trị thông thường (normal value) sẽ được xác định dựa trên giá của quốc gia thay thế hoặc giá do cơ quan điều tra xác định trên cơ sở giá của quốc gia thay thế;
– Trường hợp các nhà sản xuất nếu cung cấp đủ các bằng chứng về việc doanh nghiệp hoạt động theo các quy luật của kinh tế thị thì việc xác định giá thông thường sẽ được áp dụng như trường hợp của nền kinh tế thị trường (market economy treatment – MET);

– Về cơ bản việc áp thuế chống bán phá giá cho sản phẩm từ mọi doanh nghiệp trong quốc gia, tuy nhiên doanh nghiệp xuất khẩu từ nước có nền kinh tế phi thị trường có thể có cơ hội được hưởng mức thuế riêng (individual treatment – IT).
1. Phương pháp tiếp cận quốc gia thay thế trong quy chế áp dụng đối với nền kinh tế phi thị trường

Điểm quan trọng nhất của quy chế nền kinh tế phi thị trường theo quy định của Luật chống bán phá của EU đó là phương pháp tiếp cận bằng quốc gia thay thế. Theo đó, giá trị thông thường của sản phẩm sẽ không được xác định dựa trên giá và chi phí sản xuất thực tế tại quốc gia xuất khẩu mà sẽ dựa trên giá và chi phí của một quốc gia khác được cho là tương tự, phù hợp và là nền kinh tế thị trường.

Tuy nhiên, trên thực tế việc lựa chọn các quốc gia thay thế lại không giống như cách hiểu từ việc sử dụng thuật ngữ tương tự, phù hợp và là nền kinh tế thị trường. Điều 2(7)(a) quy định:

Một nước thứ ba có nền kinh tế thị trường phù hợp sẽ được lựa chọn không theo một cách thức không hợp lý, có xem xét tới bất kỳ thông tin đáng tin cậy nào có được tại thời điểm lựa chọn.

Có thể thấy ngay trong cách quy định của Luật chống bán phá giá của EU, định nghĩa về quốc gia thay thế cũng không rõ ràng. Thay vì cách quy định khẳng định việc lựa chọn dựa trên cách thức hợp lý, EU quy định khẳng định một cách gián tiếp. ‘Lựa chọn không theo một cách thức không hợp lý’ không hoàn toàn đồng nghĩa với ‘lựa chọn cách thức hợp lý’. Nếu quy định theo hướng khẳng định trực tiếp thì EU sẽ đưa ra các tiêu chí cụ thể và sẽ dễ dàng cho bị đơn trong việc đưa ra các lập luận của mình. Tuy nhiên, việc quy định theo hướng khẳng định gián tiếp này, EU không cần thiết phải có những quy định cụ thể và hoàn toàn chủ động xem xét và bác bỏ lập luận của bị đơn.

Xem xét các vụ kiện của Việt Nam, các quốc gia đã được lựa chọn bao gồm Đài Loan (chốt cài thép không gỉ), Mexico (xe đạp) và Brazil (giày mũ da). Một vài quốc gia đã được đề xuất lựa chọn bao gồm Nhật (ống tuýp thép), Ấn Độ (chốt cài thép không gỉ), Ấn Độ, Thái Lan (xe đạp) và Thái Lan, Indonesia, Ấn Độ (giày mũ da). Qua các vụ kiện này có thể thấy các tiêu chí để lựa chọn quốc gia thay thế được các cơ quan điều tra của EU áp dụng bao gồm:

Thứ nhất là việc tồn tại thị trường cạnh tranh đối với sản phẩm tương tự đang được điều tra tại quốc gia thay thế. Qua các vụ kiện của Việt Nam có thể thấy EU đã xem xét tính cạnh tranh bao gồm việc tồn tại các nhà sản xuất khác nhau, bao gồm cả nội địa và nhập khẩu; sản phẩm có thể được bán tại thị trường trong nước hoặc xuất khẩu. Ví dụ như việc lựa chọn Đài Loan là quốc gia thay thế trong vụ kiện chốt cài thép không gỉ, EU lý giải Đài Loan là quốc gia sản xuất chốt cài thép không gỉ lớn nhất thế giới. Thị trường Đài Loan mang tính cạnh tranh bởi tồn tại một số lượng lớn các nhà sản xuất và phân phối sản phẩm chốt cài thép không gỉ. Tương tự đối với việc lựa chọn Brazil trong vụ kiện giày mũ da. Trong phán quyết của EU, Brazil được coi là một lựa chọn hợp lý vì sự tồn tại của các nhà sản xuất trong nước và một loạt các sản phẩm nhập khẩu tạo ra một thị trường cạnh tranh đối với sản phẩm giày mũ da. Sản phẩm giày mũ da của Brazil cũng được xuất khẩu đi các thị trường Bắc Mỹ, Nam Mỹ và Châu Âu.

Thứ hai là tính đại diện của sản phẩm tương tự đang được điều tra. Tiêu chí này liên quan đến việc xác định giá trị thông thường của sản phẩm (normal value) làm căn cứ để xác định biên độ chống bán phá giá và thuế chống bán phá giá. Theo đó, sản phẩm được bán tại thị trường nội địa tại quốc gia thay thế cần phải chiếm ít nhất 5% khối lương sản phẩm đang bị điều tra bán tại thị trường EU. Ví dụ như Đài Loan được lựa chọn là quốc gia thay thế trong vụ kiện chốt cài thép không gỉ. Tuy nhiên, trong vụ kiện xe đạp, Đài Loan lại không được lựa chọn vì phần lớn sản phẩm để xuất khẩu, khối lượng bán sản phẩm tại thị trường nội địa không đáng kể và không đủ để so sánh. Thái Lan cũng không được EU chấp nhận là quốc gia thay thế trong vụ kiện chốt cài thép không gỉ vì không có sản phẩm này bán tại thị trường nội địa.

Thêm vào đó, việc lựa chọn quốc gia thay thế phụ thuộc vào sự hợp tác của các doanh nghiệp tại các quốc gia được lựa chọn. Sự hợp tác giúp cho các cơ quan điều tra có thể thu thập được thông tin đáng tin cậy để tính giá thông thướng của sản phẩm. Trong trường hợp của Việt Nam, một số quốc gia thay thế như Italia, Hàn Quốc và Ấn Độ được các bị đơn đề xuất nhưng do các doanh nghiệp của các quốc gia này không hợp tác nên Ủy ban Châu Âu đã từ chối đề xuất các bị đơn.

Thực tế, các doanh nghiệp của Việt Nam đã đưa ra nhiều lập luận chứng minh các quốc gia thay thế liên quan đến sự tương tự về điều kiện kinh tế xã hội cũng như quy trình sản xuất kinh doanh đối với sản phẩm. Tuy vậy, phần lớn các lập luận này đều bị Ủy ban Châu Âu từ chối. Qua đó có thể hiểu rằng Ủy ban Châu Âu không thực sự quan tâm đến sự chênh lệch hay phù hợp về mức độ phát triển giữa các quốc gia khi lựa chọn. Ví dụ như Mexico được lựa chọn là quốc gia thay thế trong vụ kiện xe đạp. Tuy nhiên, năm 2004, tổng sản phẩm GNP của Việt Nam là 2.700 USD, trong khi đó Mexico là 9.640 USD. Hoặc trong trường hợp lựa chọn Nhật Bản, sự khác biệt có thể thấy ngay từ vị thế của một quốc gia phát triển và quốc gia đang phát triển. Một trong những lý do được hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam viện dẫn đó là chi phí lao động. Nếu như trong quá trình điều tra, Mỹ thừa nhận những cải cách tích cực của Việt Nam đối với lao động và tiền lương thì ngược lại EU vẫn không đánh giá cao những cải cách đó. Ủy ban Châu Âu vẫn cho rằng chi phí lao động của Việt Nam chưa thực sự phản ánh theo đúng điều kiện thị trường.

Trên cơ sở kết quả lựa chọn, EU sẽ tính toán giá trị thông thường và xác định biên độ chống bán phá giá theo thông tin của quốc gia thay thế. Hệ quả to lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam đó là biên độ chống bán phá giá thường được nâng lên cao hơn so với cách tính toán dựa trên giá trị thực tế của quốc gia xuất khẩu. Ví dụ như trong vụ kiện xe đạp, đối với doanh nghiệp được hưởng MET thì mức thuế chống bán phá giá là 15,8% so với mức thuế 34, 5% áp dụng cho các doanh nghiệp bị tính toán theo quy chế phi thị trường thông qua quốc gia thay thế. Phần tiếp theo sẽ phân tích các tiêu chí để doanh nghiệp được hưởng MET trong điều tra chống bán phá giá của EU.

2. Các tiêu chí để các doanh nghiệp Việt Nam được hưởng MET

Quy định về chống bán phá giá của EU không có những định nghĩa cụ thể về một nền kinh tế thị trường hay nền kinh tế phi thị trường tuy nhiên đưa ra 5 tiêu chí để xác định nếu như doanh nghiệp có thể thỏa mãn các tiêu chí này thì việc xác định giá thông thường sẽ được áp dụng như trong nền kinh tế thị trường. Điều 2(7)(c) quy định việc xác định doanh nghiệp được hưởng MET sẽ được thực hiện sau khi tham vấn Hội đồng tư vấn và sau khi ngành công nghiệp của EU cho ý kiến về việc hưởng MET này.

Các tiêu chí này về cơ bản được nêu trong các kết luận điều tra chống bán phá giá như sau:

a) Các quyết định kinh doanh và giá cả được đưa ra dựa theo các tín hiệu của thị trường và không có sự can thiệp quá nhiều từ phía Chính phủ

Dựa trên quan niệm về nền kinh tế phi thị trường là nền kinh tế mà ở đó giá cả và việc cung cấp hàng hóa được xác định theo kế hoạch của nhà nước hơn là dựa trên yêu cầu của thị trường, tiêu chí này đòi hỏi doanh nghiệp phải tự chủ trong hoạt động và không chịu bất cứ sự can thiệp hay ảnh hưởng nào của Nhà nước. Liên quan đến tính tự chủ của doanh nghiệp, Điều 2(7)(c) yêu cầu các doanh nghiệp phải tự chủ trong việc quyết định giá cả, chí phí, đầu vào (bao gồm nguyên liệu thô) chi phí về công nghệ và lao động, đầu ra, việc bán hàng và đầu tư.

Tuy vậy, Điều 2(7)(c) lại không quy định rõ thế nào là sự can thiệp của nhà nước. Dựa trên thực tế xem xét các vụ kiện chống bán phá giá đã áp dụng đối với Việt Nam, các dạng can thiệp của nhà nước mà cơ quan điều tra của EU không chấp nhận cho doanh nghiệp được hưởng MET rất khác nhau. Một là, ảnh hưởng của nhà nước được hiểu là doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước hoặc thuộc sở hữu của doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước. Trong trường hợp này, rất dễ dàng các doanh nghiệp sẽ không được coi là đáp ứng tiêu chí thứ nhất để được hưởng MET. Ví dụ trong vụ kiện chống bán phá giá đối với giày mũi da, trong số 8 doanh nghiệp yêu cầu được hưởng MET thì hai doanh nghiệp bị cho là thuộc sở hữu nhà nước.

Một dạng khác cũng bị coi là có sự ảnh hưởng của nhà nước được thấy trong các vụ kiện đó là giới hạn về xuất khẩu, cụ thể là việc quy định tỷ lệ tối thiểu phải xuất khẩu cho các doanh nghiệp thuộc các Khu công nghiệp, Khu chế xuất. Trong trường hợp đối với xe đạp của Việt Nam, các cơ quan điều tra cho rằng phần lớn các sản phẩm phải xuất khẩu đã được quy định như một điều kiện để cấp giấy phép đầu tư. Thực tế rằng, các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp, khu chế xuất phải có nghĩa vụ xuất khẩu ít nhất là 80% sản phẩm của họ. Trường hợp tương tự như vậy cũng được tìm thấy trong trường hợp đối với giày mũi da của Việt Nam.

Các cơ quan điều tra cũng viện dẫn đến các quyền thuê đất được xác định cụ thể trong giấy phép đầu tư là một trong những biểu hiện của sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động của doanh nghiệp.

b) Hệ thống sổ sách kế toán tuân theo các tiêu chuẩn kế toán quốc tế (IAS), được kiểm toán độc lập và được áp dụng cho mọi mục đích IAS được ban hành bởi Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế bao gồm các nguyên tắc chung và các nguyên tắc cụ thể trong việc xây dựng và lập báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Một khi báo cáo tài chính được xây dựng phù hợp với IAS, các thông tin báo cáo được cho là thiết thực, đáng tin cậy và có thể sử dụng để so sánh, đối chiếu thông tin. Luật chống bán phá giá yêu cầu hệ thống sổ sách kế toán của doanh nghiệp phải tuân theo các tiêu chuẩn kế toán quốc tế, được kiểm toán độc lập và áp dụng cho moi mục đích. Tiêu chí này được đưa ra với mục đích để có thể kiểm tra tính xác thực trong thông tin của doanh nghiệp.

Trong trường hợp của Việt Nam, phần lớn các doanh nghiệp đều không thực hiện theo IAS. Cụ thể, trong trường hợp giày mũi da, 7/8 doanh nghiệp không áp dụng IAS. Tương tự trong vụ kiện xe đạp, 4/5 doanh nghiệp yêu cầu được hưởng MET không áp dụng IAS. Doanh nghiệp cũng bị tìm thấy là những hóa đơn không minh bạch, không được kiểm toán. Trong vụ kiện chốt cài thép không gỉ, các doanh nghiệp không áp dụng IAS có phản đối cho rằng họ áp dụng tiêu chuẩn kế toán của Việt Nam và đã được sự cho phép của Bộ Tài chính. Tuy nhiên, cơ quan điều tra đã từ chối lý do này và cũng nêu ra rằng việc trì hoãn hoặc không thực hiện IAS chỉ bằng một văn bản của Bộ Tài chính cho thấy rõ ràng rằng IAS đã không được áp dụng trên thực tế một cách thích hợp.

Thực tế rằng, IAS được coi như một công cụ để bảo đảm tính tin cậy trong thông tin cung cấp của doanh nghiệp. Trường hợp doanh nghiệp không tuân thủ IAS thì không những không được hưởng MET mà ngay cả các thông tin do họ cung cấp liên quan đến các yếu tố khác như giá xuất khẩu cũng bị coi là không đáng tin cậy và không được sử dụng trong quá trình điều tra. Điều này có thể thấy rõ trong các trường hợp điều tra đối với chốt cài thép không gỉ, xe đạp và giày da của Việt Nam. Trong trường hợp này, các doanh nghiệp bị điều tra sẽ gặp nhiều bất lợi vì số liệu được sử dụng là các ‘fact available’ và thường là từ Eurostat hoặc được thu thập, kiểm chứng trên cơ sở các số liệu của ngành công nghiệp EU.

Trong vụ kiện xe đạp, cơ quan điều tra kết luận:

‘các doanh nghiệp không được hưởng MET gia xuất khẩu được xác định dựa trên fact avaible bởi vì giá xuất khẩu của một vài doanh nghiệp đưa ra là không đáng tin cậy. Và do vậy, giá xuất khẩu do các doanh nghiệp đã được nêu ở đoạn 43 [doanh nghiệp không tuân thủ IAS] sẽ không được xem xét khi xác định giá xuất khảu, và chỉ coi giá xuất khẩu của các doanh nghiệp mà giá xuất khẩu được coi là đáng tin cậy được sử dụng cho mục đích này’

c) Không có những biến dạng đáng kể từ hệ thống kinh tế phi thị trường trước đó

Một cách khái quát, Điều 2(7)(c) Luật chống bán phá giá của EU yêu cầu chi phí sản xuất và tình hình tài chính của doanh nghiệp không bị bóp méo nghiêm trọng bởi hệ thống kinh tế phi thị trường trước đó. Khác với tiêu chí thứ nhất xem xét giá cả và chi phí của sản phẩm có bị ảnh hưởng tại trong quá trình sản xuất và đưa ra thị trường tiêu thụ, tiêu chí này xem xét có hay không giá cả và chi phí của sản phẩm bị ảnh hưởng bởi quá trình chuyển đổi, tức là không phản ánh trung thực bởi những yếu tố của nền kinh tế phi thị trường. Cụ thể như trong trường hợp các vụ kiện của Việt Nam, một trong những yếu tố được nhắc đến nhiều đó là ‘biến dạng’ trong giá đất. Nói một cách khác, cơ quan điều tra chống bán phá giá cho rằng không có thị trường tự do trong lĩnh vực đất đai tại Việt Nam. Theo đó, giá đất được xác định bởi các cơ quan có thẩm quyền. Trong một vài trường hợp, các doanh nghiệp chỉ bắt đầu việc sản xuất sau khi xây dựng cơ sở hạ tầng hoặc được miễn tiền thuê đất trong một thời gian nhất định. Đây đều bị coi là những biến dạng ảnh hưởng đến giá cả và chi phí của sản phẩm được mang sang từ nền kinh tế phi thị trường.

Liên quan đến các doanh nghiệp nhà nước đã tiến hành cổ phần hóa, các doanh nghiệp này không được hưởng MET mặc dù đã cố gắng chứng minh hoạt động của mình không được hưởng bất cứ một ưu đãi nào của nhà nước. Lý do được cơ quan điều tra của EU nêu ra đó là việc xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp khi cổ phần hóa. Đồng thời, một vấn đề là các doanh nghiệp không đưa ra được bằng chứng hoặc chứng từ cho việc ai đã trả cái gì tại thời điểm cổ phần hóa.

Việc cần thiết phải chứng minh không có biến dạng nào liên quan đến giá và chí phi của sản phẩm được mang sang từ nền kinh tế phi thị trường có mối liên hệ với những cam kết của các quốc gia khi gia nhập WTO. Tức là nó đòi hỏi các quốc gia khi gia nhập WTO phải bảo đảm mình đang hoạt động trong một điều kiện kinh tế thị trường nhất định. Nó lý giải không phải ngẫu nhiên mà EU dành một điều khoản riêng quy định việc cho hưởng MET chỉ đối với các quốc gia có nền kinh tế phi thị trường nhưng là thành viên của WTO.

d) Pháp luật về phá sản và tài sản phải bảo đảm sự ổn định và chắc chắn về mặt pháp lý cho hoạt động của doanh nghiệp

Nền kinh tế thị trường luôn đòi hỏi sự canh tranh để phát triển. Các doanh nghiệp nào làm ăn tốt, ‘khỏe mạnh’ thì sẽ tồn tại. Doanh nghiệp nào làm ăn kém hiệu quả, dần dần không canh tranh được và không thể tồn tại. Luật phá sản doanh nghiệp tạo cơ sở pháp lý cho doanh nghiệp có thể chết khi nó không thể hoạt động. Sẽ là không hợp lý nếu như doanh nghiệp không thể duy trì hoạt động kinh doanh nhưng doanh nghiệp bắt buộc phải hoạt động, sản xuất kinh doanh dù cho nó không mang lại lợi nhuận để qua đó làm giảm thiểu thiệt hại. Trường hợp này dễ dẫn đến việc bán phá giá sản phẩm. Tương tự yêu cầu đối với luật về tài sản, trường hợp doanh nghiệp đang bị điều tra có thể sử dụng tài sản không thuộc doanh nghiệp mà không phải trả phí, điều này có thể xem xét như một dạng trợ cấp. Tuy nhiên, nếu nhà nước có quyền sử dunngj tài sản của doanh nghiệp, nó có thể không cấu thành trợ cấp. Có thể khó khăn khi tranh luận rằng thiếu luật tài sản sẽ ảnh hưởng đến giá của sản phẩm hoặc làm thế nào để nó dẫn đến việc doanh nghiệp bán phá giá.

Trong các điều tra chống bán phá giá cho doanh nghiệp Việt Nam, cơ quan điều tra chống bán giá không xem xét các tiêu chí này để từ chối cho các doanh nghiệp được hưởng MET. Trong vụ kiện chống bán phá giá đối với giày da Việt Nam, các doanh nghiệp Việt Nam được xem xét là đáp ứng được với tiêu chí này.

đ) Sự chuyển đổi của đồng nội tệ theo tỷ giá của thị trường

Việc chuyển đổi của đồng nội tệ ám chỉ rằng nếu doanh nghiệp có thể sử dụng tỷ giá phi thị trường, nghĩa là nhà nước trợ giá cho doanh nghiệp trong việc xuất khẩu và nhập khẩu (phụ thuộc vào mối quan hệ giữa vấn đề tỷ giá phi thị trường và thi trường). Trường hợp tỷ giá được xác định ở một mức cố định có thể coi là tỷ giá của thị trường. Trong các vụ kiện đối với Việt Nam, cơ quan điều tra kết luận về cơ bản các doanh nghiệp Việt Nam đáp đứng được tiêu chí này.

3. Các tiêu chí để được hưởng IT

Về nguyên tắc, biên độ phá giá sẽ được tính cho tất cả các doanh nghiệp, tuy nhiên nếu doanh nghiệp được hưởng IT thì sẽ được hưởng hưởng mức thuế riêng áp dụng cho doanh nghiệp đó. Các tiêu chí để được hưởng IT bao gồm:

– Số lượng hàng, giá xuất khẩu, các điều kiện và nguyên tắc bán hàng được tự do thỏa thuận.

– Phần lớn cổ phần thuộc sở hữu tư nhân (trong trường hợp nhà nước có đại diện trong Hội đồng quản trị hoặc chiếm giữ vị trí quản lý thì phải là thiểu số hoặc doanh nghiệp phải chứng minh được mình vẫn hoạt động độc lập, không chịu sự can thiệp của nhà nước);

– Tỷ giá chuyển đổi ngoại tệ được thực hiện theo giá thị trường;

– Sự can thiệp của nhà nước không ở mức độ làm biến dạng biện pháp chống bán phá giá khi các nhà sản xuất, xuất khẩu liên quan được áp dụng mức thuế riêng;

– Trường hợp xuất khẩu là công ty liên doanh hoặc có một phần hoặc toàn bộ vốn đầu tư nước ngoài thì xuất khẩu đó phải được tự do chuyển vốn và lợi nhuận về nước

Các tiêu chí này có những điểm tương đồng nhưng không hoàn toàn là các tiêu chí để được hưởng MET ở khía cạnh chúng tập trung chủ yếu vào các vấn đề liên quan đến xuất khẩu, không quan tâm đến giá và chi phí sản xuất trong nước. Doanh nghiệp đề nghị được hưởng IT phải đưa ra các bằng chứng doanh nghiệp không thuộc sở hữu nhà nước; hoặc thành viên của Hội đồng quản trị, Ban giám đốc hoặc thành viên khác có vị trí quyết định trong doanh nghiệp, nếu là viên chức nhà nước thì không có quyền can thiệp vào quyết định xuất khẩu. Nếu các doanh nghiệp Việt Nam được hưởng IT, một biên độ bán phá giá sẽ được tính dựa trên giá trị xuất khẩu thực tế của doanh nghiệp so sánh với giá trị thông thường của sản phẩm của quốc gia thay thế. Tuy nhiên, chưa có một doanh nghiệp nào được hưởng IT trong các vụ điều tra chống bán phá giá của EU. Mặc dù trong vụ kiện đối với xe đạp, Always Co. Ltd là doanh nghiệp được hưởng MET nhưng lại không được hưởng IT. Ủy ban Châu Âu cho rằng doanh nghiệp này vẫn chịu ảnh hưởng của nhà nước liên quan đến khối lượng xuất khẩu. Qua ví dụ này có thể thấy không có tiêu chí rõ ràng cho việc cho hưởng MET hoặc IT hoặc không được hưởng cả hai.

4. Cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam

GATT/WTO cũng như Hiệp định về chống bán phá giá của WTO không quy định các tiêu chí cho việc xác định nền kinh tế thị trường. Với cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO, các quốc gia được tự quy định về các tiêu chí của nền kinh tế thị trường trong pháp luật của quốc gia. Do vậy, Luật chống bán phá giá với sự phân biệt đối xử dành cho các quốc gia có nền kinh tế phi thị trường không bị xem là vi phạm quy định của WTO.

Với Nghị định thư về việc gia nhập WTO, các doanh nghiệp Việt Nam chấp nhận tính hợp pháp của quy chế nền kinh tế phi thị trường trong các điều tra chống bán phá giá đối với hàng hóa xuất khẩu vào EU. Tuy nhiên các tiêu chí xem xét cho hưởng MET đã tạo ra một cơ hội tốt cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc không bị phân biệt đối xử nếu như họ chứng tỏ được đang hoạt động theo điều kiện của nền kinh tế thị trường và không chịu ảnh hưởng lớn từ nhà nước. Câu hỏi được đặt ra là có bao nhiêu cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam được hưởng MET hoặc IT. Phần lớn các doanh nghiệp yêu cầu được hưởng MET thì gần như trong số đó không chứng minh được họ không chịu ảnh hưởng của Nhà nước trong quá trình sản xuất kinh doanh. Số liệu thống kê của 3 vụ kiện chống bán phá giá của Việt Nam cho thấy, chỉ có 1 trong số 16 doanh nghiệp của Việt Nam được xét đến trong các quyết định của EU là được hưởng MET (Always. Co. Ltd trong vụ kiện xe đạp). Hội đồng chỉ nêu rằng sau khi tham vấn Hội đồng tư vấn, họ quyết định trao MET cho Always trên cơ sở doanh nghiệp này đáp ứng được với các tiêu chí trong Điều 2(7)(c) Luật chống bán phá giá của EU. Như vậy, tính tỷ lệ thực tế, cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam chỉ là 6% (1/16). Tỷ lệ này thấp hơn nhiều so với 38% doanh nghiệp (75/200) có thể claim MET trong giai đoạn 2000 đến 2005.

Thực tế các doanh nghiệp Việt Nam thường không đưa ra được đủ các bằng chứng rằng họ đang thực hiện theo IAS cũng như là không có sự tồn tại đáng kể các ảnh hưởng của nền kinh tế phi thị trường và của nhà nước đến quá trình hoạt động, kinh doanh. Việc EU đánh giá các quy định về thị trường không tham vấn đến các cam kết của Việt Nam trong quá trình gia nhập IMF và WTO. Các cải cách cần thiết phải tiến hành, bao gồm sự minh bạch hóa và cải cách trong tỷ giá hối đoái, thương mại, sở hữu nhà nước, tư nhân hóa, chính giá giá, quyền tài sản, trợ cấp xuất khẩu, chính sách công nghiệp bao gồm cả chính sách xuất khẩu và cạnh tranh, cơ chế đầu tư.

Sẽ rất khó cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc đưa ra các lập luận cụ thể để chứng minh cho mình đang hoạt động trong nền kinh tế thị trường. Cách quy định chung chung của các tiêu chí, đặc biệt là về việc can thiệp của nhà nước. Không chỉ đặc biệt nhạy cảm với các trường hợp doanh nghiệp của nhà nước hay các thành viên của Hội đồng quản trị, Ban giám đốc hoặc các thành viên khác tham gia vào các quyết định của doanh nghiệp là các viên chức nhà nước mà EU cũng nhạy cảm đối với các chính sách về khuyến khích, ưu đãi đầu tư hoặc quy định giá cả của một số mặt hàng. Nếu xem xét một cách cụ thể các tiêu chí này, thì ngay cả các nước có nền kinh tế thị trường cũng không đáp ứng được. Minh chứng khác là tiêu chí về việc tuân thủ IAS, thực tế hiện nay có khoảng hơn 100 quốc gia chấp nhận và áp dụng IAS. Ngay cả Brazil, quốc gia đã từng được lựa chọn là quốc gia thay thế cho Việt Nam trong vụ kiện giày mũ da thì hiện nay cũng đang trong quá trình triển khai để áp dụng IAS.

Quay trở lại với việc đưa Nga và Ukraina ra khỏi danh sách các quốc gia có nền kinh tế phi thị trường, bản thân EU cũng không có lý giải cụ thể về mối liên hệ giữa việc đưa các quốc gia này ra khỏi danh sách áp dụng và việc thỏa mãn như thế nào đối với các tiêu chí để chứng minh hoạt động dưới điều kiện nền kinh tế thị trường như đã được quy định trong Luật chống bán phá giá. Với tỷ lệ thấp và không có những quy định cụ thể về các tiêu chí, việc được hưởng MET là rất khó khăn. Tuy nhiên, đây là vấn đề của cá nhân có thể nỗ lực trong phạm vi của từng doanh nghiệp. Bên cạnh việc đi tìm các bằng chứng chứng minh, các doanh nghiệp cần phải tiến hành ngay các cải cách cần thiết trong hoạt động của mình để ngày càng tiến gần hơn với việc được hưởng MET trong lúc chờ đợi thời hạn 12 năm chấm dứt theo cam kết khi gia nhập WTO.

Xin giấy phép (sưu tầm & biên tập)

3. Triển vọng quan hệ kinh tế Việt Nam – EU

Hiện nay, quy mô kinh tế của Liên hiệp châu Âu đứng thứ hai thế giới (chiếm khoảng 25% GDP toàn thế giới), sau Mỹ. Về thương mại, EU chiếm 19,4% giá trị hàng hoá và 24,3% dịch vụ tổng giá trị thương mại thế giới năm 2002. Tình hình kinh tế nói trên của EU và của các nước trong khối đã và đang tác động sâu sắc quan hệ kinh tế thương mại giữa EU và các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.

Quan hệ hợp tác kinh tế

Từ khi bình thường hoá quan hệ giữa Việt Nam và cộng đồng Châu âu ngày 22-10-1990, quan hệ kinh tế, thương mại giữa Việt Nam và EU không ngừng phát triển cả chiều rộng và chiều sâu. Tiếp theo Hiệp định buôn bán hàng dệt may Việt Nam – EU (ngày 15-12-1992) và sau đó là hiệp định khung được ký giữa Việt Nam và EU (ngày 17-7-1995), mối quan hệ này đã có sự phát triển miới. Thực tế cho thấy Việt Nam và EU đã trở thành những bạn hàng không thể thiếu của nhau, cùng bổ sung cho nhau, hợp tác hai bên cùng có lợi. Sự hợp tác này bao gồm các lĩnh vực từ thương mại đến đầu tư, tài chính tín dụng, khoa học công nghệ, văn hoá – nghệ thuật.

>> gọi:

Triển vọng quan hệ kinh tế Việt Nam - EU

Ảnh minh họa

Về thương mại, quy mô buôn bán giữa Việt Nam và EU thời kỳ 1990-2000 tăng 12,1 lần. Kể từ năm 1991 đến nay, danh mục mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang EU có sự phát triển, ngoài những mặt hàng truyền thống như thuỷ sản, nông sản (cà phê, chè, gia vị) đã có các sản phẩm công nghiệp chế biến như: dệt may, giày dép, các sản phẩm bằng da thuộc, đồ gỗ, đồ chơi trẻ em, đồ sứ mỹ nghệ, và gần đây đã xuất hiện những mặt hàng như : điện tử, điện máy. EU đã và sẽ luôn luôn là thị trường quan trọng đối với ngoại thương của Việt Nam. Trong quan hệ thương mại song phương, Việt Nam tiếp tục xuất siêu; về nhập khẩu, khoảng 90% hàng nhập khẩu của Việt Nam từ EU là sắt, thép, phân bón và sản phẩm dầu mỏ.

Để thúc đẩy quan hệ thương mại song phương, Việt Nam và EU đã dành cho nhau chế độ đãi ngộ tối huệ quốc (MFN). EU đã cam kết dành cho hàng hoá xuất xứ từ Việt Nam chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP), đồng thời EU đã gia hạn và điều chỉnh tăng hạn ngạch nhập hàng dệt – may Việt Nam, công nhận hơn 30 doanh nghiệp chế biến thuỷ sản Việt Nam đạt tiêu chuẩn chất lượng và vệ sinh cuả EU. Một số doanh nghiệp và nhiều hàng hoá Việt Nam đã được chấp nhận và từng bước có chỗ đứng ổn định tại thị trường EU. Nếu xét về cơ cấu các nước thuộc EU có quan hệ thương mại với Việt Nam, đứng đầu là CHLB Đức chiếm tỷ trọng 28,5% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – EU: Tiếp đến là cộng hoà pháp chiếm 20,7%, Anh 12,7%, I-ta-li-a 9,6%, Bỉ, Luých-xăm-bua 8,1%, Hà Lan 7,6%, Tây Ban Nha 4,2%, Thuỵ Điển 2,8%, Đan Mạch 2,2%, áo 1,4%, Phần Lan 0,9%, Hy Lạp và Bồ Đào Nha đều là 0,4%.

Về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của EU vào Việt Nam; tính đến hết năm 2002 các nước thành viên EU đã có 285 dự án FDI đầu tư vào việt Nam với tổng vôns đăng ký hơn 7 tỷ USD (trong đó Pháp 2,58 tỷ USD, Anh 1,8 tỷ, Hà lan 1,17 tỷ USD)….Các dự án FDI của EU đã góp phần quan trọng vào việc bổ sung nguồn vốn, mở rộng thị trường xuất khẩu, tiếp thu công nghệ tiên tiến,. Tuy nhiên, nguồn vốn FDI của EU vào Việt Nam mấy năm gần đây đang có chiều hướng suy giảm. Nhằm khuyến khích các doanh nghiệp châu âu đầu tư vào Việt Nam, tháng 10-2003, EU đã tổ chức diễn đàn đầu tư EU-ASIA tại thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra, trên các trang thông tin của EU, các doanh nghiệp EU và Việt Nam có thể tìm chọn lựa đối tác với các dự án cụ thể. Một số dự án có thể đước cộng đồng châu Âu chọn để tài trợ cho từng khâu; làm luận chứng khả thi, đào tạo và huấn luyện, , hỗ trợ kỹ thuật….

EU đang có các chương trình, dự án đối với Việt Nam trong các lĩnh vực; hỗ trợ về tài chính và kỹ thuật, phát triển nông nghiệp và nông thôn, xoá đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường, y tế , cải cách hệ thống ngân hàng, phát triển nguồn nhân lực, hỗ trợ Việt Nam về kỹ thuật trong việc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Chỉ tính riêng năm 2002 tổng số vốn của dự án, chương trình của EU tiến hành ở Việt Nam vào khoảng 311 triệu ơ-rô, tăng 4% so với năm 2001.

Triển vọng hợp tác kinh tế

Mặc dù quan hệ kinh tế – thương mại Việt Nam – EU đang phát triển nhanh, nhưng hiện nay còn gặp khó khăn và chưa tương xứng với tiềm năng kinh tế của hai bên. Giá trị thương mại Việt Nam – EU mới chiếm 0,12% tổng kim ngạch ngoại thương của EU và chiếm 13,84% tổng kim ngạch ngoại thương của Việt Nam. Nhìn chung, hàng xuất khẩu của Việt nam vào EU còn hạn chế về chủng loại, tập trung vào một số ít mặt hàng như dệt may, giày dép, thuỷ sản. Chất lượng hàng hoá chưa cao, mẫu mã đơn sơ…So với các nước đang phát triển khác ở châu á, hàng hoá Việt Nam xuất khẩu vào EU có lợi thế do đang được hưởng chế độ GSP, song khả năng cạnh tranh lại kém so với các nước châu Phi, Thái Bình Dương và Ca-ri-bê, cũng như của một số nước Đông Âu, một phần do các nước này được hưởng các ưu đãi thương mại riêng theo Công ước Lô-mê hoặc theo các hiệp định liên kết.

Về chủ quan, nhìn chung các doanh nghiệp Việt Nam còn thiếu kinh nghiệm thương trường, thiếu hiểu biết về luật lệ, văn hoá kinh doanh của thị trường EU; việc tiếp thị nắm thông tin về kinh tế thị trường EU còn nhiều hạn chế. Các doanh nghiệp Việt Nam vẫn làm ăn theo kiểu sản xuất nhỏ, manh mún, chưa phù hợp truyền thống và tập quán kinh doanh châu Âu, ngay cả việc khai thác các thế mạnh để tìm thế chủ động, trong việc chinh phục, chiếm lĩnh thị trường EU.

Mặt khác, theo đánh giá của các chuyên gia EU, mặc dù Việt Nam đã có chính sách hội nhập kinh tế quốc tế tầm chiến lược, nhưng một số chính sách ngắn hạn thương xuyên thay đổi, nhiều khi không nhất quán thiếu ổn định, ảnh hưởng đến sự hấp dẫn của môi trường đầu tư (chính sách thuế, quy định về tỷ lệ nội địa hoá liên quan xuất khẩu….), cho nên chưa tạo cho bạn hàng EU lòng tin yên tâm làm ăn lâu dài với doanh nghiệp Việt Nam.

Triển vọng từ nay đến hết năm 2004, xuất khẩu của Việt nam sang EU vẫn có chiều hướng tốt do đây là khu vực kinh tế ổn định, ít biến động và EU vẫn đang dành cho Việt Nam chế độ GSP (chỉ có hàng dệt may là quản lý bằng hạn ngạch. Tuy nhiên, sau đó hàng hoá Việt Nam sẽ phải cạnh tranh hết sức gay gắt với hàng hoá của các nước khác, nhất là Trung Quốc,. Một số mặt hàng truyền thống như dệt may, thuỷ sản, gạo, đường… sẽ gặp khó khăn do quy định của EU. Về tổng thể, việc phát triển thị trường xuất khẩu nước ta vào EU sẽ ngày càng khó khăn hơn nếu ta chưa gia nhập FTA.

Các bộ, ngành và doanh nghiệp cần có kế hoạch tích cực chuẩn bị để tranh thủ những điều kiện thuận lợi và khắc phục những khó khăn, thách thức mới về thương mại, đầu tư khi EU mở rộng, kết nạp thêm mười thành viên mới vào ngày 1-5-2004.

Xin giấy phép (sưu tầm & biên tập)

4. Quy định thuế chống bán phá giá của Hoa kỳ và EU

Gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Việt Nam buộc phải chấp nhận việc bị coi là nền kinh tế phi thị trường trong vòng 12 năm. Trên thực tế, quy chế nền kinh tế phi thị trường (NME) đã gây ra nhiều bất lợi cho Việt Nam những năm gần đây. Cùng với tăng trưởng thương mại, Việt Nam cũng bị cáo buộc bán phá giá nhiều hơn. Việt Nam đã phải chịu nhiều thiệt hại về xuất khẩu khi các mặt hàng cá da trơn, xe đạp, da giầy, vv…bị áp dụng các biện pháp chống bán phá giá.

Bài viết sau đây sẽ đi sâu phân tích quy chế NME và cách tiếp cận nước thay thế mà Hoa Kỳ và EU sử dụng nhằm đưa ra các phán quyết cuối cùng khẳng định bán phá giá và làm tăng biên độ phá giá.

I) Các tiêu chí về quy chế kinh tế phi thị trường

Thuật ngữ nền kinh tế phi thị trường có nguồn gốc ra đời đặc biệt. Sau Đại chiến Thế giới II, vai trò chủ chốt của Nhà nước trong giao dịch ngoại thương của các nước Đông Âu đã khiến các tài liệu chính thức sử dụng thuật ngữ các nước mà Nhà nước thực hiện giao dịch thương mại. Sau khi đã có tự do hóa thương mại và giảm bớt độc quyền Nhà nước tuyệt đối trong các giao dịch ngoại thương, các nhà kinh tế học và chính trị gia chuyển sang thuật ngữ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Khi có thêm các cải cách định hướng thị trường hồi cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990, các nước chuyển đổi được gọi là các nền kinh tế phi thị trường.

>>

Luật sư tư vấn pháp luật đầu tư nước ngoài ?

Ảnh minh họa

Quy chế NME được Hoa Kỳ và EU xây dựng là một quyết định mang tính chính trị hơn là trên cơ sở kinh tế. Bộ Thương mại Hoa Kỳ và EU không đề rõ ranh giới mà một nền kinh tế phi thị trường hoàn thành quá trình chuyển đổi để trở thành một nền kinh tế thị trường. Hoa Kỳ và EU chỉ đưa ra tiêu chí khái quát nhằm xác định qui chế NME với từng nước. Sự khác biệt cơ bản giữa các tiêu chí của Hoa Kỳ và các tiêu chí của EU là Hoa Kỳ đánh giá các nước trong khi EU đánh giá các doanh nghiệp. Dưới đây là bảng tiêu chí của Hoa Kỳ nhằm xác định NME:

STT

Tiêu chí

1

Mức độ mà đồng tiền của nước ngoài đó có thể được chuyển đổi sang đồng tiền của nước khác

2

Mức độ sở hữu hoặc kiểm soát của chính phủ đối với các phương tiện sản xuất

3

Mức độ kiểm soát của chính phủ đối với sự phân bổ các nguồn lực và đối với các quyết định về giá cả và sản lượng của doanh nghiệp

4

Mức độ mà các mức tiền công lao động ở nước ngoài đó được xác định bởi sự thương lượng tự do giữa người lao động và giới quản lý

5

Mức độ mà các liên doanh hoặc các dạng đầu tư khác của doanh nghiệp từ các nước khác được phép hoạt động ở nước ngoài đó

6

Những yếu tố khác mà cơ quan quản lý thấy phù hợp

Nguồn: Polouektov (2002)

EU lại đưa ra các tiêu chí về nền kinh tế thị trường (ME), những quốc gia không đáp ứng được các tiêu chí này sẽ bị coi là nền kinh tế phi thị trường:

1

Chuyển đổi hối đoái được thực hiện theo tỷ giá thị trường

2

Các quyết định của doanh nghiệp về giá cả, chi phí và đầu vào – gồm chi phí nguyên vật liệu, công nghệ và lao động, sản lượng, doanh số và đầu tư – được đưa ra để đáp ứng với những tín hiệu thị trường phản ánh cung và cầu, không có sự can thiệp đáng kể nào của Nhà nước, và chi phí của những đầu vào chính về cơ bản phản ánh giá thị trường

3

Các doanh nghiệp có một loạt các sổ sách kế toán cơ bản rõ ràng, được kiểm toán độc lập theo các chuẩn mực kế toán quốc tế và được áp dụng cho tất cả các mục đích

4

Chi phí sản xuất và tình hình tài chính của doanh nghiệp không chịu sự bóp méo đáng kể dưới tác động của hệ thống kinh tế phi thị trường, nhất là liên quan tới khấu hao tài sản, các dạng xóa nợ và các dạng thanh toán bù nợ khác

5

Các doanh nghiệp liên quan chịu sự điều chỉnh của các luật về phá sản và tài sản đảm bảo sự chắc chắn và ổn định về pháp lý cho doanh nghiệp hoạt động

Nguồn: Polouektov (2002)

II) Cách tiếp cận nước thay thế trong việc xác định thuế chống bán phá giá

1. Phương pháp nền kinh tế thị trường dùng để thay thế

Bán phá giá được định nghĩa là việc đặt giá xuất khẩu thấp hơn so với giá trong nước, vì vậy gây thiệt hại cho các ngành công nghiệp của nước nhập khẩu. Bất cứ phương pháp điều tra nào làm tăng giá nội địa đều làm tăng khả năng dẫn đến phán quyết cuối cùng khẳng định có bán phá giá. Khi các rào cản thuế quan và phi thuế quan đang được giảm để tuân thủ với các quy định của WTO, thì các vụ chống bán phá giá được sử dụng nhiều hơn nhằm bảo vệ các ngành công nghiệp trong nước.

Trong các vụ kiện chống bán phá giá, Hoa Kỳ và EU đã sử dụng cách tiếp cận nước thay thế cho các nền kinh tế bị coi là phi thị trường. Phương pháp này bắt nguồn từ các cuộc thương lượng về cách làm thế nào để xác định giá cả trong nước ở những nước mà Nhà nước độc quyền thương mại vào những năm thuộc thập niên 1960 và chúng được duy trì trong các quy định của WTO. Cách tiếp cận này cho phép bên khởi kiện lựa chọn một nền kinh tế thị trường để thay thế cho nền kinh tế phi thị trường. Giá cả ở nước thay thế được sử dụng để đại diện cho giá trong nước của nền kinh tế phi thị trường. Sự tuỳ tiện trong quá trình lựa chọn và việc so sánh các sản phẩm không giống nhau giữa các nước là điều phổ biến. Thường xảy ra sự lạm dụng trong việc tính toán giá trị thông thường. Tình trạng định giá quá cao đối với các yếu tố sản xuất gần như diễn ra ở khắp mọi nơi, nhất là đối với chi phí lao động bởi vì phương pháp này không đếm xỉa gì tới sự khác biệt giữa các nước. Việc không tính đến những khác biệt giữa các nước để không tính đến nguyên nhân chính yếu vì sao hàng xuất khẩu của các nước nghèo lại rẻ hơn và vì vậy làm sai lệch các kết quả phát hiện. Hơn nữa, việc Hoa Kỳ sử dụng những thông tin bất lợi có sẵn đối với các nhà sản xuất của NME cho phép Hoa Kỳ sử dụng những số liệu không đáng tin cậy để tính ra giá trị thông thường. Phương pháp nước thay thế cho phép các bên khởi kiện thao túng các con tính, dựng ra kết luận khẳng định bán phá giá và phóng đại biên độ phá giá.

2. Một số trường hợp điển hình về điều tra chống bán phá giá ở Việt Nam

a) Cá da trơn

Trong vụ kiện chống bán phá giá cá da trơn, Bangladesh đã được Hoa Kỳ chọn là nước có nền kinh tế thị trường để thay thế cho Việt Nam. Mặc dù có trình độ phát triển kinh tế tương đương, nhưng lại có sự khác biệt đáng kể ở cấp độ doanh nghiệp và sản xuất, khiến cho chi phí sản xuất ở Bangladesh cao hơn và vì thế giá trị thông thường của Việt Nam bị tính quá cao. Bộ Thương mại Hoa Kỳ không tính giá trị thông thường dựa trên cơ sở sản xuất tích hợp – từ khâu thượng nguồn là đầu vào cho tới khâu chế biến. Thay vào đó, Bộ Thương mại Hoa Kỳ lại định giá đầu vào chính (cá sống) được sử dụng để sản xuất mặt hang đang bị điều tra. Điều này dẫn tới việc định giá quá cao.

Ngoài ra, việc sử dụng tiền công lao động dựa trên phép hồi quy là 0,63 USD/giờ đối với Việt Nam đã khiến mức tiền công lao động hàng tháng được xác định cao gấp ba lần so với mức tiền công lao động trung bình ở Việt Nam.

b) Xe đạp

Trong vụ kiện chống bán phá giá cá da trơn, Mexico đã được EU lựac chọn làm nước thay thế dựa trên sự tương tự của sản phẩm và sự tồn tại thị trường cạnh tranh. Tuy nhiên, EU lại không tính tới sự chênh lệch về trình độ phát triển của hai nước này. Tính theo ngang giá sức mua năm 2004 (PPP) tổng thu nhập quốc dân trên đầu người của Việt Nam là 2.700 USD còn của Mexico là 9.640USD (Nguồn: Ngân hàng thế giới). EU giả định rằng các thị trường lao động không tồn tại trong các nền kinh tế phi thị trường và thay vào đó họ sử dụng giá của nước thay thế. Điều này từ chối không tính tới lao động rẻ là lợi thế so sánh chủ chốt của các nước nghèo hơn. Kết quả là phá giá bị tính quá cao.

Lý luận phản đối việc EU chọn Mexico làm nước thay thế cho Việt Nam, nhiều người cho rằng chi phí lao động cao gấp ba lần so với chi phí lao động ở Việt Nam. Vì thế, chi phí sản xuất và giá thành phẩm ở Mexico cao hơn so với chi phí và giá ở Việt Nam. EU đáp lại rằng Việt Nam được xem là nền kinh tế đang chuyển đổi. Chi phí lao động của các Nhà sản xuất Việt Nam không được hưởng quy chế kinh tế thị trường nên không phải là giá cả tự do. Mục đích chính của việc sử dụng nước so sánh là nhằm loại bỏ tác động của giá cả phi thị trường và bác bỏ luận điểm này.

III) Một số giải pháp giải quyết vấn đề kinh tế phi thị trường của Việt Nam

Trước những cách tính tùy tiện thuế chống bán phá giá mà Hoa Kỳ và EU áp đặt cho Việt Nam dựa trên quy chế NME và cách tiếp cận nước thay thế, Việt Nam cần đưa ra những giáp pháp ngắn hạn và dài hạn, vi mô và vĩ mô để sớm thoát khỏi việc bị áp đặt là nền kinh tế phi thị trường. Có như vậy, Việt Nam mới hạn chế tối đa được những thiệt hại của hàng xuất khẩu khi bị cáo buộc bán phá giá. Dưới đây là một số hướng đi chính mà Việt Nam cần thực hiện trong thời gian tới:

Chấp nhận những thách thức mà một nước bị coi là kinh tế phi thị trường sẽ phải đối mặt khi tham gia thương mại quốc tế, đặc biệt trong quan hệ thương mại với những nước thường xuyên sử dụng công cụ chống bán phá giá. Xác định rõ những khó khăn có thể sẽ gặp phải khi xuất khẩu ra thị trường quốc tế để chuẩn bị sẵn các giải pháp đối phó. Như vậy, doanh nghiệp và Chính phủ phải chấp nhận những thách thức nảy sinh từ việc bị coi là nền kinh tế phi thị trường để chuẩn bị các biện pháp đối phó với tình trạng áp đặt thuế chống bán phá giá và trợ cấp của các nước như Hoa Kỳ, EU và các nước khác đối với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam. Mục tiêu là bảo vệ lợi ích của các doanh nghiệp và đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường các nước nói trên.

Đẩy mạnh cải cách theo định hướng thị trường. Đồng thời tích cực vận động các thành viên WTO sớm công nhận quy chế thị trường và không áp dụng điều khoản trong Nghị định thư gia nhập WTO về kinh tế phi thị trường. Đẩy mạnh cải cách kinh tế thị trường là cách đối phó tích cực và lâu dài nhất trong trường hợp bị coi là kinh tế phi thị trường. Hướng đi này cũng phù hợp với mục tiêu phát triển của Việt Nam trong những năm tới.

Với tư cách thành viên WTO, yêu cầu xem xét lại và sửa đổi các điều khnoản liên quan kinh tế phi thị trường trong Hiệp định Chống bán phá giá của WTO. Tích cực vận động các nước công nhận kinh tế thị trường của Việt Nam đồng thời nâng cao vai trò của mình trong các cuộc đàm phán sắp tới để có tiếng nói quan trọng trong vấn đề kinh tế phi thị trường trong WTO.

Xin giấy phép (sưu tầm & biên tập)

5. Những lưu ý khi đăng ký quyền bảo hộ sở hữu trí tuệ tại EU

Trong những năm gần đây, thị trường Châu Âu được coi là một trong những thị trường tiềm năng lớn của các doanh nghiệp Việt Nam trong nhiều lĩnh vực kinh doanh. Để có thể tiến hành hoạt động kinh doanh hiệu quả tại EU, việc nghiên cứu hệ thống bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ của liên minh này là việc làm không thể thiếu đối với các doanh nghiệp.

Để (hoặc kiểu dáng cho các sản phẩm) của mình tại EU, các doanh nghiệp có thể đăng ký bảo hộ theo hệ thống Nhãn hiệu cộng đồng (CTM) tại Cơ quan hài hoà hoá thị trường nội địa OHIM (The Office for Harmonization in the Internal Market). Đây là cơ quan có thẩm quyền đăng ký nhãn hiệu và kiểu dáng công nghiệp có giá trị thi hành và bảo hộ trên toàn lãnh thổ EU, dưới sự quản lý của Uỷ ban Châu Âu.

Theo quy định của hệ thống nhãn hiệu Cộng đồng, các chủ thể có quyền nộp đơn tại OHIM bao gồm, cá nhân, pháp nhân thuộc các nước thành viên Cộng đồng Châu Âu; cá nhân, pháp nhân thuộc các nước thành viên Công ước Paris, hay Hiệp định TRIPs; cá nhân, pháp nhân có nơi cư trú hoặc trụ sở kinh doanh đóng tại một trong các nước thành viên của Cộng đồng Châu Âu, Công ước Paris, hoặc Hiệp định TRIPs. Việt Nam là thành viên của Công ước Paris. Vì vậy các cá nhân, pháp nhân Việt nam nếu có nhu cầu đều có thể nộp đơn đăng ký CTM tại OHIM.

CTM có thể được làm bằng một trong 11 ngôn ngữ chính thức của Cộng đồng. Trong đơn, người nộp đơn phải tuyên bố chọn một trong 5 ngôn ngữ: Tây Ban Nha, Đức, Anh, Pháp và Italia (đây là 5 ngôn ngữ chính thức được sử dụng ở OHIM) là ngôn ngữ thứ hai để sử dụng khi tiến hành các thủ tục, ví dụ như phản đối đơn, huỷ bỏ hiệu lực…

Hình thức nhãn hiệu có thể được đăng ký tại EU bao gồm: nhãn hiệu hàng hoá, nhãn hiệu dịch vụ, nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận. Văn bằng bảo hộ nhãn hiệu hoặc kiểu dáng công nghiệp do OHIM cấp có giá trị tại 27 quốc gia thành viên EU.

Để đăng ký bảo hộ Nhãn hiệu cộng đồng, người nộp đơn chỉ phải nộp 1 đơn duy nhất theo 1 thủ tục chung duy nhất. Do đó, chi phí cho việc nộp đơn đăng ký thấp hơn nhiều so với việc bảo hộ quyền tại từng quốc gia. Đơn đăng ký được làm bằng một loại ngôn ngữ duy nhất giúp doanh nghiệp giảm thiểu các chi phí cho việc dịch thuật.

Việc thực thi hiệu lực của Nhãn hiệu cộng đồng được thực hiện bởi Toà án nhãn hiệu Cộng đồng, điều này giúp cho các thủ tục pháp lý được đơn giản hóa, tiết kiệm tối đa thời gian, chi phí cho chủ sở hữu quyền trong quá trình giải quyết, xử lý hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu.

Khi Nhãn hiệu được OHIM cấp văn bằng bảo hộ, chủ sở hữu có quyền độc quyền sử dụng nhãn hiệu; ngăn chặn việc sao chép và giả mạo nhãn hiệu; chuyển giao nhãn hiệu, cấp licence cho một số hàng hóa hoặc dịch vụ tại một phần hay toàn bộ lãnh thổ Cộng đồng; phản đối đăng ký những nhãn hiệu Cộng đồng hoặc nhãn hiệu quốc gia tương tự có thể gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng.

OHIM có một trung tâm hành chính duy nhất tại Alicante – Tây Ban Nha. Để đăng ký nhãn hiệu Cộng đồng, người nộp đơn có thể nộp tại Văn phòng OHIM ở Alicante hoặc qua các cơ quan quốc gia thuộc EU. Đơn có thể được nộp bằng fax, qua đường bưu điện hoặc nộp đơn điện tử. Các công ty thuộc các quốc gia không phải là thành viên EU cần có đại diện pháp lý tại EU để tiến hành các thủ tục trong quá trình đăng ký nhãn hiệu Cộng đồng.

Ngoài ra, EU có thể được chỉ định là một phần của Đăng ký quốc tế dựa trên nhãn hiệu quốc gia hiện có (theo Nghị định thư Madrid). Trong trường hợp này, doanh nghiệp phải nộp đơn qua WIPO và tuân thủ quy trình, thủ tục đăng ký theo Madrid. Phí được nộp cho WIPO. Việc nộp đơn qua WIPO chỉ cần đại diện pháp lý khi có phản đối đơn.

Thời gian thẩm định đơn đăng ký nhãn hiệu Cộng đồng kéo dài khoảng 9-13 tháng với chi phí khoảng 1.800 Eur cho 1 nhãn hiệu trong trường hợp không có bất kỳ tranh chấp hay phải đối nào trong quá trình đăng ký.

Liên hệ sử dụng dịch vụ đăng ký bảo hộ tại Việt Nam.

Quý khách hàng có nhu cầu sử dụng dịch vụ vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi: CÔNG TY LUẬT TNHH MINH KHUÊ

Điện thoại yêu cầu dịch vụ luật sư sở hữu trí tuệ, gọi:

Gửi thư tư vấn hoặc yêu cầu dịch vụ qua Email:

Trân trọng./.

Bộ phận Sở hữu Trí tuệ – Minh Khuê

Nếu bạn cần thêm thông tin xin đặt câu hỏi vào ô hỏi đáp bên dưới để chúng tôi có thể hỗ trợ cho bạn nhiều hơn. Xin chân thành cảm ơn.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *