Cố ý gây thương tích bị xử lý như thế nào?

Xin chào bạn đến với chuyên trang tư vấn dịch vụ pháp luật. Sau đây là một số nội dung chỉ mang tính chất tham khảo. các bạn có thể đọc để hiểu thêm nhé.

Hành vi cố ý gây thương tích mức độ nhẹ có thể bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi cố ý gây thương tích, mức độ nặng (tỷ lệ thương tật trên 11 %) sẽ bị xử lý hình sự và đối diện với nguy cơ bị phạt tù theo quy định của pháp luật hiện nay:

Mục lục bài viết

1. Cố ý gây thương tích bị xử lý như thế nào?

Kính chào Xin giấy phép, tôi có một vấn đề mong luật sư giải đáp: Hôm đó, anh của tôi có đánh người và mấy người bạn của anh tôi cũng vào giúp do có xích mích từ trước. Hiện nay, người bị đánh bị tổn thương 23% sức khỏe. Luật sư cho tôi hỏi liệu anh tôi có bị đi tù không và nếu bị thì phải đi tù bao nhiêu năm? Và có được giảm nhẹ tội cho anh tôi không vì do người bị hại là người gây sự trước, anh tôi cũng chưa có tiền án, tiền sự gì? Tôi xin chân thành cảm ơn!

Người gửi: L.C

Cố ý gây thương tích bị xử lý như thế nào ?

Trả lời:

Thứ nhất, về mức án anh trai bạn phải nhận.

Căn cứ khoản 1 Điều 134 quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như sau:

“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;

b) Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm;

c) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình;

đ) Có tổ chức;

e) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

g) Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;

h) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê;

i) Có tính chất côn đồ;

k) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.”

Dấu hiệu pháp lý:

– Mặt khách quan: hành vi của tội này là hành vi có khả năng gây ra thương tích hoặc tổn thương khác làm tổn hại đến sức khỏe của con người. Những hành vi đó có thể được thực hiện với công cụ, phương tiện phạm tội hoặc không có công cụ, phương tiện phạm tội hoặc có thể thông qua súc vật hay cơ thể người khác…

– Hậu quả của tội phạm: hậu quả mà cấu thành tội phạm tội này đòi hỏi là thương tích hoặc tổn thương khác cho sức khỏe ở mức độ có tỷ lệ thương tật là 11% trở lên (đến 30%) hoặc dưới tỷ lệ đó nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây:

+ Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người. Hung khí nguy hiểm có thể là súng, dao găm… Thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người là thủ đoạn gây thương tích hoặc gây tổn hại cho người khác có khả năng gây ra hậu quả đó không phải chỉ cho một người mà cho nhiều người như thủ đoạn bỏ hóa chất gây ngộ độc vào thức ăn chung của gia đình…

+Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân: Cố tật là những tật trên cơ thể nạn nhân do hành vi phạm tội gây ra mà không thể khắc phục được.

+ Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;

+ Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

+ Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

+ Có tổ chức;

+ Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

+ Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;

+ Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;

+ Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

Như vậy, những trường hợp gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe có tỷ lệ thương tật dưới 11% và không thuộc các trường hợp nêu trên là những trường hợp chưa cấu thành tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

– Quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả thương tích hoặc tổn thương khác. Đây là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Khi đã xác định có hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe và có hậu quả thương tích hoặc hậu quả tổn thương khác, đòi hỏi phải xác định hậu quả này là do chính hành vi đó gây ra.

– Mặt chủ quan của tội phạm: lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý. Có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp. Người phạm tội có thể mong muốn hậu quả thương tích hoặc hậu quả tổn hại cho sức khỏe nhưng cũng có thể chỉ chấp nhận hậu quả đó.

– Chủ thể của tội phạm: chủ thể của tội này có thể là bất kì người nào có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định.

Dựa theo quy định trên và những dấu hiệu của tội phạm, tình tiết cụ thể hơn trong việc cố ý gây thương tích cho người khác của anh bạn. Bạn có thể xác định mức hình phạt cho anh mình theo Điều 134 .

Ngoài ra, đối với những người cùng thực hiện hành vi với anh trai bạn, phải xem xét liệu đây có phải là đồng phạm hay không? Nếu xác định là đồng phạm thì những người tham gia vào vụ ẩu đả cũng sẽ bị truy tố.

Thứ hai, về việc giảm nhẹ tội.

Trong quá trình điều tra và xét xử, Tòa án sẽ xem xét các tình tiết giảm nhẹ theo Điều 51 . Nếu anh trai bạn thuộc vào những trường hợp này, sẽ được Tòa án xem xét giảm nhẹ hình phạt. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bao gồm:

– Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;

– Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;

– Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;

– Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;

– Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;

– Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;

– Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;

– Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;

– Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;

– Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;

– Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;

– Phạm tội do lạc hậu;

– Người phạm tội là phụ nữ có thai;

– Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;

– Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;

– Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;

– Người phạm tội tự thú;

– Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;

– Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;

– Người phạm tội đã lập công chuộc tội;

– Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;

– Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.

Ngoài ra, anh trai bạn có thể xin hưởng án treo, khi đủ các điều kiện quy định như sau:

Căn cứ khoản 1 Điều 65 , được hướng dẫn tại Điều 2 hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành thì người bị xử phạt tù có thể được xem xét cho hưởng án treo khi có đủ các điều kiện sau đây:

– Bị xử phạt tù không quá 03 năm.

– Có nhân thân tốt.

Được coi là có nhân thân tốt nếu ngoài lần phạm tội này, người phạm tội luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú, nơi làm việc.

Đối với người đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích, người bị kết án nhưng đã được xóa án tích, người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị xử lý kỷ luật mà thời gian được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 06 tháng, nếu xét thấy tính chất, mức độ của tội phạm mới được thực hiện thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hoặc người phạm tội là đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án và có đủ các điều kiện khác thì cũng có thể cho hưởng án treo.

– Có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Trường hợp có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì số tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phải nhiều hơn số tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự từ 02 tình tiết trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

– Có nơi cư trú rõ ràng hoặc nơi làm việc ổn định để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giám sát, giáo dục.

Nơi cư trú rõ ràng là nơi tạm trú hoặc thường trú có địa chỉ được xác định cụ thể theo quy định của Luật Cư trú mà người được hưởng án treo về cư trú, sinh sống thường xuyên sau khi được hưởng án treo.

Nơi làm việc ổn định là nơi người phạm tội làm việc có thời hạn từ 01 năm trở lên theo hợp đồng lao động hoặc theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.

– Xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù nếu người phạm tội có khả năng tự cải tạo và việc cho họ hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

>> Tham khảo thêm nội dung liên quan:

2. Tư vấn về việc bị công an khởi tố tội cố ý gây thương tích?

Sự việc của tôi xảy ra vào ngày 27 tháng 12 năm 2018. Tôi cùng 2 người bạn sau khi uống rượu đến hát karaoke tại quán thì xảy ra vụ việc như sau: Tôi và 2 người bạn đó đã đánh một người đàn ông. Do chúng tôi quá say. Sau khi đi bệnh viện ông đó bị thương tật là gãy sống mũi, đã phẫu thuật và trở lại bình thường và vai trái trật khớp phải phẫu thuật bắt vít. Sau đó, gia đình và chúng tôi có đến thăm nom, chu cấp đầy đủ tiền theo yêu cầu của gia đình bị hại. Đến nay họ đã đồng ý bãi nại. Và hứa sẽ tha thứ cho chúng tôi. Họ sẽ không đi giám định thương tật.

Nhưng tôi được biết bên công an vẫn tiến hành khởi tố vụ án, khởi tố bị can. Và theo thông tin được biết là họ sẽ giám định hồ sơ bệnh án để luận tội mặc dù không có mặt người bị hại. Vậy tôi xin hỏi luật sư một số vấn đề như sau:

1. Thương tật của người đàn ông đó (theo như trên) thì có vượt quá 30% theo luật định?

2. Việc giám định hồ sơ bệnh án mà không có người bị hại có được không, và nếu được thì theo luật nào?

3. Theo tôi được biết nếu thương tật không quá 30% và có đơn bãi nại của bị hại thì sẽ không khởi tố hình sự (theo tôi biết thì tội chúng tôi phạm vào khoản 1 Điều 134 BLHS). Nhưng bên công an vẫn khởi tố thì căn cứ vào điều luật nào?

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Người gửi: H.T.N

Tư vấn về việc bị công an khởi tố tội cố ý gây thương tích ?

Trả lời:

Thứ nhất, việc xác định tỷ lệ thương tật:

Dựa vào vết thương, bạn có thể xác định được tỷ lệ thương tật theo quy định tại . Theo đó:

Ví dụ: Với vết thương phần mũi có thể tỷ lệ thương tật từ 6%-10% nếu không ảnh hưởng tới chức năng thở và ngửi, từ 26%-30% nếu ảnh hưởng nhiều tới chức năng thở và ngửi.

Thứ hai, việc khởi tố theo yêu cầu của người bị hại chỉ được tiến hành khi hành vi cấu thành tội phạm thuộc một trong các trường hợp sau theo khoản 1 Điều 155 :

Điều 155. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại

1. Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.”

Theo mô tả trong thư của bạn, hành vi của bạn có thể cấu thành tội cố ý gây thương tích theo quy định tại Điều 134 , áp dụng trong trường hợp của bạn không thuộc một trong các trường hợp khởi tố theo yêu cầu của người bị hại. Vì thế, việc bên gia đình nạn nhân có hay không không ảnh hưởng đến việc cơ quan công an có quyền khởi tố vụ án hay không. Việc khởi tố vụ án trong trường hợp này phải căn cứ vào tỉ lệ thương tích của nạn nhân. Để xác định tỉ lệ thương tật một cách chính xác, nạn nhân phải tiến hành thủ tục giám định tỉ lệ thương tật tại các tổ chức giám định tư pháp. Nếu tỷ lệ thương tật dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp qui định tại khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự thì vẫn có thể bị khởi tố vụ án hình sự.

Thứ ba, việc giám định có thể không yêu cầu sự có mặt của người bị hại nhưng phải đầy đủ các giấy tờ sau theo quy định của :

“1. Người yêu cầu giám định phải gửi văn bản yêu cầu giám định kèm theo đối tượng giám định, các tài liệu, đồ vật có liên quan (nếu có) và bản sao giấy tờ chứng minh mình là đương sự trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ đến cá nhân, tổ chức thực hiện giám định.

2. Văn bản yêu cầu giám định tư pháp phải có các nội dung sau đây:

a) Tên tổ chức hoặc họ, tên người yêu cầu giám định;

b) Nội dung yêu cầu giám định;

c) Tên và đặc điểm của đối tượng giám định;

d) Tên tài liệu có liên quan hoặc mẫu so sánh gửi kèm theo (nếu có);

đ) Ngày, tháng, năm yêu cầu giám định và thời hạn trả kết luận giám định;

e) Chữ ký, họ, tên người yêu cầu giám định.”

Như vậy, trước hết chúng ta cần tiến hành giám định tỉ lệ thương tật của nạn nhân để xác định có căn cứ để tiến hành khởi tố vụ án hình sự hay không. Trường hợp của bạn,việc khởi tố không phụ thuộc vào việc có đơn yêu cầu khởi tố của người bị hại.

>> Xem thêm nội dung:

3. Trình tự xét xử sơ thẩm vụ án hình sự với tội cố ý gây thương tích và bắt giữ người trái pháp luật?

Xin giấy phép giới thiệu đến quý khách hàng, sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh ngành luật… Luật sư phân tích những diễn biên, nội dung phiên tòa, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự: Bắt giữ người trái pháp luật.

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

———-***———

…………., ngày… tháng … năm…….

QUYẾT ĐỊNH ĐƯA VỤ ÁN RA XÉT XỬ

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN………………

Căn cứ vào các Điều 45, 277 và 255 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: …/20…./HSST ngày…. tháng…. , năm…..

QUYẾT ĐỊNH

Đưa ra xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với các bị cáo:

1. Phan Tường Ngọc. Sinh ngày 18/05/1994

– ĐKHKTT: La Phương, xã Chế Thanh, huyện Dương Thanh, tỉnh Hà Nam

– Trú tại: La Phương, xã Chế Thanh, huyện Dương Thanh, tỉnh Hà Nam

– Nghề nghiệp: Làm ruộng

– Bị truy tố về tội: Cố ý gây thương tích và Bắt giữ người trái pháp luật

2. Bị cáo Phan Tất Văn. Sinh ngày 22/04/1968

– Nghề nghiệp: Không nghề

– ĐKHKTT: La Phương, xã Chế Thanh, huyện Dương Thanh, tỉnh Hà Nam

– Trú tại: La Phương, xã Chế Thanh, huyện Dương Thanh, tỉnh Hà Nam

– Nghề nghiệp: Làm ruộng

– Bị truy tố về tội: Bắt giữ người trái pháp luật

Thời gian mở phiên toà: Hồi 8 giờ 00 ngày tháng năm 2016

Địa điểm mở phiên toà: Trụ sở Toà án nhân dân huyện Dương Thanh

Vụ án được xét xử công khai.

Những người tiến hành tố tụng:

* Thẩm phán – Chủ toạ phiên toà: Ông

* Các Hội thẩm nhân dân: ông …………………………. , cán bộ Ban dân vận huyện Dương Thanh và bà …………………… Phó hiệu trưởng trường phổ thông dân lập Nguyễn Bỉnh Khiêm.

* Thư ký Toà án ghi biên bản phiên toà: bà ………………………. Cán bộ Tòa án nhân dân huyện Dương Thanh.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Dương Thanh tham gia phiên toà: ông …………………… và bà ……………………………………….. Chức vụ: Kiểm sát viên.

Những người tham gia tố tụng:

Người bị hại: Phan Tất Vũ – Sinh ngày 16/11/1992

Người làm chứng:

1.Nguyễn Đôn Hòa. Sinh ngày 14/03/1969

2 Phùng Thị Bích. Sinh ngày 16/07/1972

3.Phan Tường Sinh. Sinh ngày 23/11/1993

* Người bào chữa cho các bị cáo: Luật sư …………………………… Công ty luật , Đoàn LS thành phố Hà Nội.

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DƯƠNG THANH

Thẩm phán (đã ký)

PHÂN VAI:

Chủ tọa: Ông

Hội thẩm 1:

Hội thẩm 2:

Thư ký:

Kiểm sát viên1:

Kiểm sát viên2:

Luật sư:

Bị cáo: Phan Tường Ngọc (khoảng 25 tuổi)

Bị cáo: Phan Tất Văn (khoảng 50 – 52 tuổi)

Người bị hại: Phan Tất Vũ (khoảng 26 tuổi)

Người làm chứng:

1.Nguyễn Đôn Hòa. Sinh ngày 14/03/1969

2 Phùng Thị Bích. Sinh ngày 16/07/1972

3.Phan Tường Sinh. Sinh ngày 23/08/1993

PHIÊN TOÀ

PHẦN THỦ TỤC BẮT ĐẦU PHIÊN TOÀ:

Thư ký làm thủ tục:

Ổn định trật tự phòng xử:

– Yêu cầu những người có mặt trong phòng xử án giữ trật tự. Sau đây tôi phổ biến nội quy phiên tòa: Mọi người trong phòng xử án đều phải tuân theo sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa. Không được mang theo chất độc, chất cháy nổ vào phòng xử án, không được sử dụng điện thoại trong phòng xử án, trẻ em dưới 16 tuổi không được vào phòng xử án, trừ trường hợp được Tòa án triệu tập. Mọi người đều phải có thái độ tôn trọng Hội đồng xét xử, những người vi phạm trật tự nội quy phiên tòa có thể bị nhắc nhở, cảnh cáo, buộc phải rời phòng xử án hoặc có thể bị bắt giữ.Mọi người đều phải đứng dậy khi Hội đồng xét xử vào phòng xử án.

Quay sang: Mời Hội đồng xét xử vào phòng xử án.

Quay xuống: Yêu cầu tất cả mọi người đứng dậy.

Chủ tọa: Hôm nay ngày ….. tháng ….. năm…… Tòa án nhân dân huyện Dương Thanh tiến hành xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự về các tội: Cố ý gây thương tích và Bắt giữ người trái pháp luật. Mời mọi người ngồi. Các bị cáo đứng tại chỗ.

Thay mặt Hội đồng xét xử, tôi công bố Quyết định đưa vụ án ra xét xử.

Chủ tọa: Tòa tiến hành kiểm tra căn cước và phổ biến quyền nghĩa vụ cho nhứng người tham gia tố tụng. Cho bị cáo Văn tạm ngồi, Bị cáo Ngọc đứng tại chỗ. Bị cáo hãy khai rõ họ tên?

Ngọc: Thưa, tôi tên là Phan Tường Ngọc.

Chủ tọa: Ngoài tên Ngọc ra, bị cáo còn tên gì khác không?

Ngọc: Tôi không còn có tên nào khac ạ

Chủ tọa: Bị cáo sinh ngày tháng năm nào?

Ngọc: Tôi sinh ngày 18/5/1996 ạ.

Chủ tọa: Bố bị cáo tên gì?

Ngoc: Thưa, bố bị cáo là Phan Tất Văn ạ.

Chủ tọa: Mẹ bị cáo tên gì?

Ngọc: Thưa, mẹ tôi tên là Phùng Thị Bích ạ.

Chủ tọa: Bị cáo hãy khai rõ: Dân tộc, Quốc tịch, Tôn giáo của bị cáo?

Ngọc: Thưa, tôi dân tộc Kinh, Quốc tịch Việt Nam, tôi không theo tôn giáo nào ạ …

Chủ tọa: Tòa giải thích quyền và nghĩa vụ cho bị cáo. Bị cáo có quyền được nhận bản cáo trạng của Viện kiểm sát; Quyết định đưa vụ án ra xét xử của Tòa án. Bị cáo đã nhận được chưa?

Ngọc: Thưa, tôi nhận được rồi ạ.

Chủ tọa: Bị cáo nhận được vào ngày nào?

Ngọc: Thưa, tôi không nhớ rõ, nhưng cách đây khoảng 2 tuần rồi ạ.

Chủ tọa: Bị cáo có quyền được đưa ra chứng cứ và các yêu cầu, có quyền tranh luận, có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa cho mình. Tại phiên tòa này có Luật sư ………………………………… của Công ty Luật …………………………………….. Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội là người bào chữa cho bị cáo. Bị cáo có muốn Luật sư ………………………….. bào chữa cho bị cáo không?

Ngoc: Thưa, tôi nhờ Luật sư ạ.

Chủ tọa: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án và các quyết định của Tòa án sau khi vụ án này xử xong ở cấp sơ thẩm. Bị cáo đã rõ chưa?

Ngọc: Thưa rõ.

Chủ tọa: Cho bị cáo ngồi. Bị cáo Văn đứng dậy …

Chủ tọa: Về phần thủ tục phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát, vị Luật sư, những người tham gia tố tụng có ai có ý kiến gì không?

Kiểm sát viên 1: Viện kiểm sát không có ý kiến gì. Đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục làm việc.

Luật sư: Luật sư cũng không có ý kiến gì. Đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục làm việc.

Chủ tọa: Nếu không ai có ý kiến gì về phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, tôi tuyên bố kết thúc phần thủ tục, chuyển sang phần xét hỏi. Đề nghị Đại diện Viện kiểm sát công bố bản cáo trạng. Các bị cáo đứng dậy.

Kiểm sát viên 1: Thay mặt Viện kiểm sát nhân dân huyện Dương Thanh, tôi công bố bản cáo trạng.

… Từ các chứng cứ và tình tiết nêu trên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Dương Thanh quyết định: Truy tố bị can Phan Tường Ngọc về tội Cố ý gây thương tích theo quy định tại khoản 3 Điều 134 và tội Bắt giữ người trái pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều 157 BLHS. Truy tố các bị can Phan Tất Văn về tội Bắt giữ người trái pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều 157 Bộ luật Hình sự.

Điều 134 Bộ luật hình sự quy định: Tội Cố ý gây thương tích.

1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;

b) Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm;

c) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình;

đ) Có tổ chức;

e) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

g) Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;

h) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê;

i) Có tính chất côn đồ;

k) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm:

a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31 % đến 60%;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30%;

c) Phạm tội 02 lần trở lên;

d) Tái phạm nguy hiểm;

đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 4 Điều này;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;

c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31 % đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này;

d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.

Điều 157 BLHS quy định: Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật: “1. Người nào bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 377 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.”

Kèm theo cáo trạng là toàn bộ hồ sơ vụ án gồm 128 bút lục, được đánh số từ 01 đến 128.

Ký thay Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Dương Thanh

Phó Viện trưởng: Vũ Công (đã ký)

Trên đây là toàn bộ nội dung bản cáo trạng mà tôi vừa công bố. Đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục làm việc.

Chủ tọa: Các bị cáo đã nghe rõ nội dung bản cáo trạng mà vị đại diện Viện kiểm sát vừa công bố chưa?

Các bị cáo (người trước người sau): Rõ rồi ạ

Chủ tọa: Cho bị cáo Ngọc ngồi, bị cáo Văn đứng tại chỗ:

Hỏi: Bị cáo có ý kiến gì với nội dung của bản cáo trạng?

Đáp: Tôi không đồng ý.

Hỏi: Vì sao bị cáo không đồng ý?

Đáp: Tôi không đồng ý vì Viện bảo tôi bắt giữ người trái pháp luật là sai, tôi chỉ muốn dạy dỗ đứa con ngỗ ngược này mà thôi…

Hỏi: Nếu dạy dỗ con thì có nhiều biện pháp, tại sao bị cáo lại dùng biện pháp bạo lực là trói con lại để dạy dỗ?

Đáp: Thưa Tòa, Tòa không ở hoàn cảnh của tôi nên không thể nào biết được. Có ai đời con mà lại “mày, tao” với bố, còn thách đố “một mất một còn với bố” rồi còn cầm dép dọa vả vào mặt bố hay không? Nếu như Tòa ở vị trí như tôi thì Tòa sẽ xử lý như thế nào?

Hỏi: Bị cáo không được so sánh như vậy, bị cáo hãy kể lại toàn bộ nội dung sự việc?

Đáp: Thưa Tòa, trưa ngày 12.6, khi gia đình tôi vừa ăn cơm xong thì thằng này (chỉ người bị hại) tới, nó đòi phân chia tài sản và đòi tiền tôi phải đưa tiền cấp dưỡng nuôi nó khi tôi ly hôn với mẹ nó. Nó đã chửi bới hỗn láo, đe dọa tôi và cháu Ngọc, vợ tôi đã đi gọi ông Hòa là người họ hàng với gia đình tôi đến can ngăn, không những nó không nghe mà còn chửi bới, đuổi ông Hòa về rồi nó rút dép đang đi đe đánh tôi. Nó nói: “Chiếc dép này tao đã vả rất nhiều người rồi, hôm nay tao dạy cho mày tỉnh táo lại”, nó còn bảo: “Hôm nay tao với mày mỗi thằng một con dao, một trong hai thằng phải chết” Thế đấy, Tòa xem nó có phải là thằng nghịch tử không?

Hỏi: Bị cáo trình bày tiếp đi?

Đáp: Vâng, khi thấy nó đang chửi và xô xát với tôi thì ông Hòa nói: “Thằng này láo, mày dám đánh cả bố mày à” thì nó chửi cả ông Hòa. Ông Hòa nói “Trói nó lại đưa ra xã, tôi đã báo với xã rồi”. Nghe vậy cháu Ngọc mới vật ngã nó xuống đất, thấy có mảnh lưới rách gần đó cháu Ngọc đã chụp vào người nó, rồi tôi với cháu Ngọc đã trói nó lại rồi khiêng nó ra đặt ở gốc cây đầu ngõ rồi chúng tôi vào trong nhà…

Chủ tọa: Cho bị cáo ngồi xuống. Mời các vị Hội thẩm tiến hành xét hỏi.

Hội thẩm 1: Tòa hỏi bị cáo Ngọc. Bị cáo Ngọc đứng dậy

Hỏi: Bị cáo có trói người bị hại không?

Đáp: Thưa … có.

Hỏi: Bị cáo đã dùng gì để trói người bị hại?

Đáp: Thưa, tôi trói bằng cái lưới quây vịt rách và dây thừng…

Hỏi: Bị cáo đã trói chân hay tay của người bị hại?

Đáp: Thưa, tôi trói tay nó, khi thấy dây còn thừa tôi trói cả chân nó ạ…

Hỏi: Đã trói người bị hại rồi, tại sao bị cáo còn đá người bị hại?

Đáp: Thưa…khi bố con tôi khiêng nó ra gốc cây đầu ngõ thì nó giẫy làm lỏng dây rồi nó vừa nhảy lò cò vừa chửi: Lát nữa chúng mày sẽ biết. Thấy vậy, bố tôi liền buộc lại dây trói cho chặt, khi đó nó vẫn cứ luôn mồm chửi bố tôi nên tôi đã đá vào 2 chân nó để nó không trốn được nữa.

Hỏi: Bị cáo đã đá vào chân nào của người bị hại?

Đáp: Thưa, tôi đá vào cả 2 chân nó.

Hỏi: Khi đá người bị hại, bị cáo đi giầy hay chân trần?

Đáp: Lúc đó tôi đang đi giày

Hội thẩm (lắc đầu): Cho bị cáo ngồi xuống.

Hội thẩm 2 hỏi người làm chứng Nguyễn Đôn Hòa.

Tòa mời ông Hòa đứng dậy.

Hỏi: Bị cáo có quan hệ như thế nào với các bị cáo và người bị hại?

Đáp: Thưa tôi … tôi là người họ hàng với nhà ông Văn, nghĩa là người thân thích với cả các bị cáo và người bị hại ạ.

Hỏi: Ông hãy trình bày lại sự việc mà ông chứng kiến vào ngày 12.6?

Đáp: Thưa, hôm đó nghe bà Bích gọi, nhờ tôi sang can ngăn thằng Vũ đang gây gổ. Khi tôi đến thì thấy thằng Vũ đang rút dép dọa đánh ông Văn, nó chửi ông Văn rất thậm tệ vì ông Văn đã không chu cấp nuôi dưỡng nó như bản án ly hôn mà Tòa đã tuyên với bố mẹ nó, nó đòi ông Văn phải chia đất đai tài sản cho nó, nếu không thì nó và ông Văn, một trong hai người phải chết.

Hỏi: Ông đã làm gì để can gián sự việc giữa các bị cáo và người bị hại?

Đáp: Thưa, tôi nghe thấy thằng Vũ chửi ông Văn thậm tệ như vậy, tôi có nói, thằng này láo, làm con mà chửi cả bố, lại còn đe đánh bố, giết bố. Láo quá, trói nó lại rồi đi báo xã. Tôi nói vậy xong rồi về. Sự việc tiếp theo như thế nào thì tôi không rõ nữa …

Hỏi: Như vậy có phải là ông đến để can ngăn không?

Đáp: Thưa, mục đích của tôi là đến để can ngăn, nhưng thấy một thằng con mà bất hiếu, ngỗ nghịch như vậy thì tôi cũng không thể nào chịu được.

Hỏi: Ông có tham gia đưa người bị hại đi cấp cứu không?

Đáp: Có. Khi nghe bà Bích chạy sang nói rằng thằng Vũ bị gãy chân, chảy máu nhiều lắm, thì tôi và bà Bích đã gọi xe đưa nó đi cấp cứu rồi bà Bích ở luôn trong viện với nó

Hội thẩm 2: Mời ông ngồi xuống

Chủ tọa mời vị đại diện Viện kiểm sát tiến hành xét hỏi. Kiểm sát viên đề nghị được hỏi người làm chứng Phan Tường Sinh. Tòa mời anh Sinh đứng dậy.

Kiểm sát viên hỏi: – Anh có quan hệ với các bị cáo và người bị hại như thế nào?

Đáp: Thưa, tôi là con ông Văn và là em anh Vũ, là anh của em Ngọc ạ.

Hỏi: Anh có thể nói rõ hơn được không?

Đáp: Thưa, tôi với anh Vũ là con của bố Văn và mẹ Sang. Sau khi bố mẹ ly hôn thì anh Vũ ở với mẹ, tôi ở với bố.

Hỏi: Anh đã chứng kiến mọi việc xảy ra như thế nào?

Đáp: Thưa, hôm đó tôi đi làm về muộn thì nghe mọi người nói anh Vũ sang đòi chia đất đai, tài sản, rồi xảy ra cãi vã, anh Vũ bị đánh gãy chân. Tôi hỏi bố tôi là sao bố lại đánh gãy chân anh Vũ thì bố tôi nói là nó là thằng bất hiếu, phải đánh què chân nó cho nó bớt hung hăng. Tôi có nói là anh ấy cũng là con bố sao bố ác thế thì bố tôi quát mắng nên tôi không dám nói nữa và đi vào trong nhà cất sách vở rồi ra ngoài ngồi.

Hỏi: Anh hãy trình bày tiếp đi?

Đáp: Thưa, mấy hôm sau tôi thấy em Ngọc nói với bố tôi là em sẽ trốn đi xa. Bố tôi nói với em là không phải trốn đi đâu cả, bố đã nhận là bố đánh gẫy chân Vũ rồi, công an không biết đâu, nên không phải trốn.

Hỏi:Khi đó bị cáo Ngọc nói gì?

Đáp: Thưa, em Ngọc khóc nói rằng tội em làm thì em chịu, bố đừng nhận tội thay thế. Bố yếu thế mà phải đi tù thì chắc không sống nổi đâu. Nhưng bố tôi cấm em không được nhận, bố tôi nói là đã điều đình với anh Vũ và mẹ cả tôi rồi, cứ thế mà làm …

Kiểm sát viên đề nghị được hỏi bị cáo Phan Tường Ngọc.

Chủ tọa: – Tòa yêu cầu bị cáo Ngọc đứng dậy.

Hỏi: Bị cáo sau khi đá gãy chân của người bị hại bị cáo đã làm gì?

Đáp: Thưa … tôi … tôi mệt quá nên vào trong nhà nằm nghỉ ạ

Hỏi: Tại sao bị cáo không đưa người bị hại đi bệnh viện cấp cứu khi biết người bị hại bị thương?

Đáp: Thưa, tôi cũng không biết nữa, vì lúc ấy tôi mất bình tĩnh vì giận quá ạ.

Hỏi: Sau khi gây thương tích cho người bị hại xong, bị cáo đã đi đâu, làm gì?

Đáp: Thưa, tôi vẫn ở nhà làm mọi việc bình thường thôi ạ.

Kiểm sát viên: Kiểm sát viên không hỏi gì thêm, đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục làm việc.

Chủ tọa đề nghị vị Luật sư tham gia xét hỏi.

Luật sư đề nghị được hỏi người làm chứng Phùng Thị Bích. Chủ tọa mời bà Bích đứng dậy.

Hỏi: Bà hãy trình bày rõ, khi anh Vũ đến gây sự bà đã chứng kiến những gì?

Đáp: Thưa, trưa hôm đó khi nó đến, người nó sặc sụa mùi rượu. Nó chửi bố nó, chửi cả nhà tôi từ cổng vào, rồi nó túm cổ áo ông Văn, nó đòi chia tài sản. Tôi thấy thái độ nó hung hăng nên đã chạy sang nhờ ông Hòa đến can thiệp rồi chạy lên xã báo công an xã ạ.

Hỏi: Bà có báo công an được không?

Đáp: Thưa có, nhưng các anh ấy bảo cứ về đi các anh ấy sẽ xuống sau vì bố con với nhau chắc nó chỉ dọa thôi chứ không dám làm gì đâu, không ngờ …

Hỏi: Bà trình bày tiếp đi.

Đáp: Tôi không ngờ khi về sự việc đã xảy ra, tôi thấy thằng Vũ chân bị gãy, lại kêu đau ở sườn. Tôi đã gọi ông Hòa sang cùng tôi đưa nó lên bệnh viện, rồi tôi ở đấy trông nó cho đến khi mẹ nó lên.

Hỏi: Bà có nộp tiền viện phí, thuốc men cho người bị hại không?

Đáp: Hôm đó tôi không mang theo tiền, nhưng sau khi về nhà, chồng và con tôi bảo tôi đi rút tiền tiết kiệm để trả tiền viện phí cho nó hết 30 triệu đồng và đưa cho mẹ nó 50 triệu đồng nữa ạ.

Luật sư đề nghị được hỏi bị cáo Văn. Tòa mời bà Bích ngồi, yêu cầu bị cáo Văn đứng dậy.

Hỏi: Ông có thấy ân hận về những già ông đã làm không?

Đáp: Khi bị nó chửi tôi mất bình tĩnh quá. Lúc bình tĩnh lại tôi thấy ân hận lắm, dẫu sao nó cũng là con tôi. Mà cũng là do tôi đã thiếu trách nhiệm với nó, không chăm sóc giáo dục nó nên mới xảy ra cơ sự như thế này …

Luật sư đề nghị hỏi người bị hại Phan Tất Vũ. Tòa cho bị cáo Văn ngồi, mời người bị hại đứng dậy.

Luật sư: Hôm 12/06 đó, anh có chửi bới bố anh không?

Vũ: Thưa có …

Luật sư: Lúc vào trong nhà cũng như khi đã bị trói anh có đe dọa giết bố anh không?

Vũ: Thưa có …

Luật sư: Anh có ân hận về những gì mà anh đã làm không?

Vũ: Tôi … tôi ân hận lắm. Nhưng hối lại cũng không kịp nữa. Tại tôi tất cả, thôi thì sự việc đã xảy ra, tôi làm tôi chịu, tôi xin Tòa đừng bỏ tù bố và em tôi nữa …

Luật sư không hỏi gì thêm, đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục làm việc. Chủ tọa hỏi Kiểm sát viên có hỏi thêm gì không, Kiểm sát viên cũng không hỏi gì thêm, đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục làm việc. Chủ tọa tuyên bố kết thúc phần xét hỏi, chuyển sang phần tranh luận. Đề nghị đại diện Viện kiểm sát trình bày lời luận tội và yêu cầu bị cáo đứng dậy.

TRANH LUẬN

Kiểm sát viên trình bày lời luận tội :

Kính thưa Hội đồng xét xử, Thưa toàn thể các quý vị. Cuộc thẩm vấn công khai tại phiên tòa đến đây đã kết thúc. Tôi……………….. Kiếm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Dương Thanh thực hành quyền công tố nhà nước xin phát biểu quan điểm về vụ án như sau:

Vào khoảng 12 giờ 30 ngày 12.6. 2015, do có mâu thuẫn với bố đẻ là Phan Tất Văn, cho rằng Phan Tất Văn đã không thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng mình sau khi ly hôn nên Phan Tất Vũ đã đến nhà Phan Tất Văn yêu cầu chia gia sản, trong quá trình cãi vã, xô xát, Phan Tất Vũ đã có lời nói và hành động xúc phạm Phan Tất Văn và những người xung quanh. Tức giận vì bị xúc phạm, Phan Tất Văn đã cùng Phan Tường Ngọc dùng lưới và dùng dây nilông trói Vũ rồi khiêng đặt ở gốc cây ngoài cổng. Khi thấy Vũ vùng vẫy làm dây trói lỏng, Văn đã tiếp tục trói Vũ chặt hơn rồi bỏ vào trong nhà. Khi thấy Vũ đứng dậy được, nhảy lò cò ra ngõ định bỏ đi thì Phan Tường Ngọc đã đẩy ngã Vũ rồi đá lên tiếp vào chân, vào sườn Vũ, làm gãy chân phải của Vũ, đứt gân chân trái, gãy xương sườn phải Vũ, sau đó Ngọc bỏ vào trong nhà.

Đến khoảng 14 giờ 30 cùng ngày ông Nguyễn Đôn Hòa là hàng xóm được bà Bích gọi sang thấy Vũ bị thương đã cởi trói cho Vũ và cùng bà Phùng Thị Bích đưa Vũ đi cấp cứu.

Tại bản giám định pháp y số 283/GĐ ngày 19/06/2014 của Tổ chức Giams định pháp y tỉnh Hà Nam, kết luận: Phan Tất Vũ bị các vết thương:

Gãy kín 1/3 dưới cẳng chân phải;

Đứt gân gót cẳng chân trái.

Gãy kín 2 xương sườn phải

Tỷ lệ thương tật 53% tạm thời.

Sau khi bỏ trốn, ngày 22/06/2015 Phan Tường Ngọc đã đến cơ quan công an đầu thú.

Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo Phan Tất Văn và Phan Tường Ngọc đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Các hành vi của Phan Tường Ngọc, Phan Tất Văn là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do của con người mà còn xâm hại đến danh dự nhân phẩm của công dân, mà pháp luật Việt Nam bảo hộ. Các hành vi đó cần phải xử lý nghiêm khắc bằng việc cần phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để trừng trị các bị cáo và làm gương cho người khác.

Từ sự phân tích trên, Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các điểm a, h, m, n khoản 1 Điều 134, khoản 3 Điều 134; khoản 1 Điều 157 BLHS; để xử phạt bị cáo Phan Tường Ngọc từ 8 đến 9 năm tù về tội Cố ý gây thương tích, từ 12 đến 18 tháng tù về tội Bắt giữ người trái pháp luật; Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 157 BLHS để xử phạt bị cáo Phan Tất Văn từ 18 đến 20 tháng tù về tội Bắt giữ người trái pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 594 Bộ luật dân sự để buộc các bị cáo Phan Tường Ngọc, Phan Tất Văn phải bồi thường cho người bị hại Phan Tất Vũ 150 triệu đồng.

Trên đây là toàn bộ quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân huyện Dương Thanh về hướng xử lý đối với vụ án. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cân nhắc trong quá trình nghị án để ra được một bản án đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Chúng tôi không còn ý kiến gì thêm.

Chủ tọa: – Yêu cầu các bị cáo đứng dậy. Các bị cáo đã nghe rõ lời luận tội của vị đại diện Viện kiểm sát chưa?

Các bị cáo (người trước người sau): Thưa, rõ rồi ạ.

Chủ tọa: Tại phiên tòa này, có Luật sư ……………………… là người bào chữa cho bị cáo. Sau khi vị Luật sư trình bày xong lời bào chữa, bị cáo có quyền bổ sung lời bào chữa của vị Luật sư để tự bào chữa cho mình. Bị cáo đã rõ chưa?

Các bị cáo (người trước người sau) : Thưa rõ rồi ạ.

Chủ tọa: Cho các bị cáo ngồi. Mời vị Luật sư

Luật sư trình bày lời bào chữa:

Kính thưa Hội đồng xét xử. Thưa quý vị đại diện Viện kiểm sát. Thưa toàn thể các quý vị đang theo dõi phiên tòa.

Tôi là ……………………. Luật sư thuộc Công ty Luật ……………., đoàn Luật sư thành phố Hà Nội, nhận nhiệm vụ bào chữa, để bảo vệ cho quyền và lợi ích hợp pháp của các thân chủ tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay.

Kính thưa Hội đồng xét xử, Viện kiểm sát nhân dân huyện Dương Thanh đề nghị áp dụng các điểm a, h, m, n khoản 1 Điều 134, khoản 3 Điều 134; khoản 1 Điều 157 BLHS; để xử phạt bị cáo Phan Tường Ngọc từ 8 đến 9 năm tù về tội Cố ý gây thương tích, từ 12 đến 18 tháng tù về tội Bắt giữ người trái pháp luật; Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 157 BLHS để xử phạt bị cáo Phan Tất Văn từ 18 đến 20 tháng tù về tội Bắt giữ người trái pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 157 Bộ luật dân sự để buộc các bị cáo Phan Tường Ngọc, Phan Tất Văn phải bồi thường cho người bị hại.

Chúng tôi cho rằng cáo buộc đó là thiếu cơ sở và thiếu công bằng đối với các thân chủ tôi, bởi lẽ:

Theo đạo lý của người Việt Nam, thì việc con mà chửi đánh mẹ cha là một điều đại nghịch, bất hiếu không thể chấp nhận được, ấy vậy mà người bị hại Phan Tất Vũ đã có hành vi chửi mắng, lăng mạ, đe dọa đánh, đã sinh thành ra mình. Vì để bảo vệ tính mạng mình và để dạy dỗ đứa con bất đạo kia nên thân chủ của tôi – ông Phan Tất Văn đã có hành động trói Phan Tất Vũ, cũng chỉ mong cho kẻ ngỗ ngược kia tĩnh trí lại để hiểu ra hành động lầm lạc của mình. Thế nhưng không, khi bị trói nằm xuống gốc cây, Vũ đã không biết thân phận mà còn lớn tiếng chửi mắng sỉ nhục cha mình. Vũ còn nới dây trói hòng trốn thoát để tìm cách trả thù. Để bảo vệ cha và gia đình, trong lúc thiếu bình tĩnh, mất kiểm soát lý trí, thân chủ Phan Tường Ngọc đã có hành động xâm hại đến người bị hại, mặc dù hành vi đó là vi phạm pháp luật, tuy nhiên chúng tôi nhấn mạnh rằng, trong hành vi của các thân chủ tôi yếu tố bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân là điểm nổi rõ khi đánh giá hành vi của các thân chủ tôi. Hơn nữa, sau khi sự việc xảy ra gia đình thân chủ tôi đã mang tiền và cắt cử người trông nom chăm sóc người bị hại tại bệnh viện. Thiết nghĩ rằng hành vi của Phan Tường Ngọc chỉ là hành vi Cố ý gây thương tích trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh mà thôi, và các thân chủ tôi xứng đáng được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại các điểm b, s khoản 1 Điều 51 BLHS, đó là các tình tiết: Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả.

Vì vậy, chúng tôi kính đề nghị Hội đồng xét xử chuyển tội danh từ tội Cố ý gây thương tích sang tội Cố ý gây thương tích trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, đồng thời áp dụng các điểm b, o, p khoản 1 Điều 46, vận dụng Điều 47 để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo Phan Tường Ngọc, áp dụng các điểm b, e, s, khoản 1 Điều 46, khoản 2 Điều 46, vận dụng Điều 54 để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo Phan Tất Văn, không cần thiết phải cách ly bị cáo Văn ra ngoài xã hội. Về phần bồi thường dân sự chúng tôi cũng đồng ý với đề nghị của Viện kiểm sát nên không còn ý kiến gì thêm.

Thay mặt cho thân chủ và nhân danh cá nhân, xin trân trọng cảm ơn Hội đồng xét xử và các quý vị đã chú ý lắng nghe.

Chủ tọa: – Yêu cầu các bị cáo đứng dậy. Các bị cáo đã nghe rõ lời bào chữa của vị Luật sư chưa?

Bị cáo Ngọc: Thưa, tôi nghe rõ.

Bị cáo Văn: Tôi nghe rõ.

Chủ tọa: Các bị cáo có muốn bổ sung thêm gì không?

Các bị cáo (người trước người sau): Thưa không ạ.

Chủ tọa: Cho các bị cáo ngồi xuống. Đề nghị vị đại diện Viện Kiểm sát đối đáp, tranh luận lại với ý kiến của vị Luật sư.

Kiểm sát viên đối đáp:

Thưa Hội đồng xét xử

Tôi hoàn toàn không nhất trí với những lời bào chữa của vị Luật sư cho các bị cáo. Vị Luật sư cho rằng bị cáo Phan Tường Ngọc không phạm tội Cố ý gây thương tích, với lập luận rằng: Vì thấy người bị hại chửi mắng, xúc phạm cha mình nên Ngọc đã bị kích động đến tột độ nên mới tấn công và làm bị thương người bị hại. Chúng tôi xin nhắc nhở vị Luật sư: quy định tại Điều 135 BLHS về tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, đòi hỏi phải có hành vi trái pháp luật nghêm trọng của nạn nhân. Ở đây người bị hại chỉ mới có hành vi vi phạm pháp luật nhưng chưa đạt tới mức độ nghiêm trọng. Âý vậy mà bị cáo đã đá những nhát chí mạng vào chân, vào sườn người bị hại, dẫn đến hậu quả làm người bị hại tổn thương 53% sức khỏe thì không thể nào chấp nhận được.

Luật sư: Thưa vị đại diện Viện kiểm sát, người bị hại Phan Tất Vũ không chỉ dừng lại ở hành vi chửi mắng, mà còn ngang ngược nói với bố đẻ của mình rằng: “Hôm nay tao với mày, mỗi thằng một con dao và chỉ một thằng còn sống thôi”. Không những thế, người bị hại còn nung nấu ý định trả thù, thể hiện bằng việc khi bị trói nằm dưới đất rồi vẫn tìm cách tháo dây trói với ý định thoát thân để trả thù. Nếu người bị hại thoát được lúc ấy thì không biết chuyện gì sẽ xảy ra. Hành vi đe dọa giết người là hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng.

Vì vậy, chúng tôi đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận đề xuất của vị Kiểm sát viên.

Chủ tọa: Đề nghị vị Đại diện Viện kiểm sát đối đáp lại với ý kiến của vị Luật sư.

Kiểm sát viên: Thưa Hội đồng xét xử, chúng tôi không cho rằng hành động nới dây trói để thoát thân của người bị hại Phan Tất Vũ là nhằm mục đích trả thù, bởi lẽ, hành vi này đòi hỏi phải có sự chuẩn bị công cụ, phương tiện phạm tội. Ở đây, người bị hại đang ở trong tình trạng yếu thế, chỉ mong được thoát thân, đâu có nghĩ đến trả thù. Vì vậy, việc tưởng tượng của Luật sư trong trường hợp này là không thể chấp nhận. Chúng tôi cũng không đồng tình với tình tiết giảm nhẹ theo điểm r, khoản 1 Điều 51 mà vị Luật sư đề xuất cho bị cáo Ngọc. Trường hợp bị cáo Ngọc bị khởi tố, và bị bắt trong trường hợp bắt bị can, bị cáo để tạm giam chứ không phải là ra đầu thú, vì vậy bị cáo Ngọc không được hưởng tình tiết giảm nhẹ này.

Luật sư: Thưa Hội đồng xét xử, tình tiết giảm nhẹ mà chúng tôi đề nghị cho các bị cáo là những tình tiết có thực. Các bị cáo đã có nhiều tình tiết giảm nhẹ, đề nghị Hội đồng xét xử vận dụng Điều 54 để giảm nhẹ hình phạt cho các thân chủ của tôi. Chúng tôi không còn ý kiến gì thêm. Đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục làm việc.

Chủ tọa: Vị đại diện Viện kiểm sát còn có ý kiến gì đối đáp lại ý kiến của vị Luật sư nữa hay không?

Kiểm sát viên: Chúng tôi cũng không còn ý kiến gì thêm. Đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục làm việc.

Chủ tọa: – Mời người bị hại đứng dậy. Người bị hại có ý kiến gì để đối đáp, tranh luận với đại diện Viện kiểm sát hoặc với vị Luật sư hay không?

Người bị hại Vũ: Thưa Tòa, tôi không tranh luận gì, mọi việc xảy ra bắt đầu từ lỗi của tôi, tôi chỉ xin Tòa tha cho bố và em tôi thôi ạ.

Chủ tọa: Nếu không ai còn có ý kiến gì mới để tranh luận thêm, tôi tuyên bố kết thúc phần tranh luận để tiến hành nghị án. Trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án, cho phép bị cáo được nói lời sau cùng. Các bị cáo đứng dậy.

Bị cáo Ngọc: Thưa Tòa, mọi việc đều do lỗi của tôi, bố tôi không làm gì cả, mong Tòa xem xét tha cho bố tôi ạ.

Bị cáo Văn: Tôi mới là người có tội, xin Tòa thả cháu Ngọc về, mọi hình phạt tôi xin chịu cả …

Chủ tọa: Cho các bị cáo ngồi. Tòa tiến hành nghị án.

Khuyến cáo: Bài viết được luật sư, chuyên gia của Công ty Xin giấy phép thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.

>> Tham khảo thêm nội dung:

4. Cố ý gây thương tích có quyền rút lại giấy bãi nại và yêu cầu khởi tố lại không?

Chào Xin giấy phép, xin hỏi: Gần đây có 3 thanh niên vào nhà và đánh tôi bị thương tích ở đầu, tôi có dùng một cây sắt và đánh lại. Một người bị gãy tay. Tôi có yêu cầu khởi tố sau đó có viết bãi nại vì họ đến xin lỗi. Vậy tôi có bị họ kiện tôi hay không? Tôi có quyền rút lại giấy bãi nại và yêu cầu khởi tố lại không? Xin cảm ơn luật sư!

Trả lời:

Theo quy định tại Điều 155 thì:

Điều 155. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại

1. Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.

2. Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.

3. Bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.”

Theo đó, tại Điều 134 quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác áp dụng trong trường hợp của bạn, hành vi những người kia đã thực hiện nếu phạm tội vào khoản 1 Điêu luật này thì khi bạn rút đơn tố cáo, vụ án mới được đình chỉ. Còn nếu thuộc vào các khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều 134 Bộ luật hình sự thì các cơ quan có thẩm quyền vẫn tiếp tục giải quyết vụ án kể cả bạn có rút đơn hay không.

Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: Người bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức. Như vậy, nếu bạn tự nguyện rút đơn thì sau đó bạn không có quyền yêu cầu khởi tố lại.

>> Tham khảo bài viết liên quan:

5. Hành vi đánh nhau trên đường phố bị khép vào tội danh gây rối trật tự công cộng hay cố ý gây thương tích?

Thưa luật sư, tôi và một nhóm bạn do mâu thuẫn và có tổ chức đánh nhau trên đường phố. Vậy xin hỏi: Hành vi của tôi bị khép vào tội gây rối trật tự công cộng hay tội cố ý gây thương tích? Mức xử phạt đối với tội danh này như thế nào? Cảm ơn luật sư!

Hành vi đánh nhau trên đường phố bị khép vào tội danh gây rối trật tự công cộng hay cố ý gây thương tích ?

Trả lời:

Nếu sự việc xích mích đánh nhau giữa nhóm bạn của em trai bạn và nhóm thanh niên kia, có ai bị thương tích hoặc tổn hại sức khỏe mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp như dùng hung khí nguy hiểm, có tính côn đồ, đối với phụ nữ có thai,….thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm theo quy định tại Điều 134 .

Nếu em trai bạn chỉ có hành vi đập trai bia vào cửa kính và không vỡ thì em bạn chỉ có nghĩa vụ dân sự là bồi thường thiệt hại cho chủ quán hát. Hành vi này không cấu thành tội phạm nên em bạn sẽ không bị truy tố.

Tuy nhiên, tùy vào các tình huống thực tế mà có thể bạn chưa đưa ra ở đây mà em trai bạn có thể bị truy tố về tội “gây rối trật tự công cộng” vì theo quy định tội gây rối trật tự công cộng không thuộc các trường hợp khởi tố theo yêu cầu của người bị hại quy định tại Điều 155 nên không cần có sự tố cáo của chủ quán.

Khoản 1 Điều 318 mô tả tội này như sau:

“1. Người nào gây rối trật tự công cộng gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.”

+ “Gây rối trật tự công cộng” là hành vi gây náo động, hò hét gây mất trật tự ở những nơi công cộng như ngoài đường phố, khu dân cư, công viên…Hành vi này gây nên sự xáo trộn, hoảng sợ cho những người xung quanh;

+ Người phạm tội gây rối bằng rất nhiều các hình thức khác nhau như: tập trung đông người nơi công cộng gây náo động; hò hét đuổi đánh nhau gây hỗn loạn nơi công cộng; đập phá các tài sản nơi công cộng hay đập phá các quán xá, quán ăn, rạp chiếu phim…đông người;

+ Khi xác định hành vi gây rối trật tự cần phải phân biệt với hành vi tuy có gây rối trật tự công cộng nhưng đã cấu thành một tội khác thì người có hành vi gây rối chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng mà họ đã thực hiện, mà không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội gây rối trật tự công cộng. Ví dụ A hò hét đuổi đánh B trên đường phố gây náo động khu vực, sau đó A dùng dao đâm chết B. Mặc dù A có hành vi gây rối trật tự công cộng nhưng A đã có hành vi đâm chết B nên A phải chịu tội giết người theo Điều 318 mà không phải chịu tội gây rối trật tự công cộng này nữa;

+ Người phạm tội này với lỗi cố ý;

+ Tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng”;

6. Thời hạn truy cứu trách nhiệm hình sự tội cố ý gây thương tích?

Tôi có một người bạn đi đến nhà A đòi tiền trong quá trình nói chuyện thì A có dùng dao làm bếp tấn công gây thương tích ở tay. Sau sự việc đó, gia đình bạn tôi có trình báo tại cơ quan công an. Gia đình tôi đã đồng ý mức đền bù là 60 triệu và khi gia đình A thanh toán được 40 triệu thì không thanh toán nữa và bỏ trốn.

Nay đã được 01 năm thì sự việc tôi có nên báo lại cơ quan công an? Hành vi của A giờ xử lý thế nào? Vết thương của bạn tôi chưa đi giám định tỷ lệ thương tật do thời điểm đó đã tổ chức hoà giải và gia đình A đang khắc phục.

Thời hạn truy cứu trách nhiệm hình sự tội cố ý gây thương tích?

Trả lời:

Căn cứ Điều 134 quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, theo đó, hành vi dùng dao tấn công gây thương tích cho người khác đã cấu thành tội cố ý gây thương tích dù tỷ lệ thương tật chưa được xác định cụ thể. Tuy nhiên, do gia đình bạn đã rút yêu cầu khởi tố nên trong trường hợp này bạn không có quyền yêu cầu lại nữa theo quy định tại Điều 155 quy định về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại. Dù không được yêu cầu khởi tố lại nhưng trong trường hợp này bạn có quyền khởi kiện ra Tòa để yêu cầu bên kia thực hiện việc bồi thường cho mình.

>> Bài viết tham khảo thêm:

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật Hình sự –

Nếu bạn cần thêm thông tin xin đặt câu hỏi vào ô hỏi đáp bên dưới để chúng tôi có thể hỗ trợ cho bạn nhiều hơn. Xin chân thành cảm ơn.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *