Xử phạt vi phạm hợp đồng gia công hàng hóa ?

Xin chào bạn đến với chuyên trang tư vấn dịch vụ pháp luật. Sau đây là một số nội dung chỉ mang tính chất tham khảo. các bạn có thể đọc để hiểu thêm nhé.

Xin chào xin giấy phép, tôi có câu hỏi muốn tư vấn như sau: Vào ngày 29/12/2014 tôi có đến gặp chị T ngụ tại TPHCM để nhận hàng về may gia công. Tôi và chị T thỏa thuận như sau: hàng gối đầu, sau khi nhận hàng đợt 1 thì sẽ thanh toán 75% tổng số tiền và 3 ngày sau thì sẽ thanh toàn phần còn lại. chúng tôi giao dịch hoàn toàn bằng miệng chứ không hề có một văn bản gì, sau đó vợ chồng chị T đưa tôi qua công ty của chị H để nhận hàng ( Chị T giải thích Chị T hợp đồng với công ty chị H để cắt hàng)

Tại công ty chị H thì tôi không gặp chị H chỉ có nhân viên và tôi thấy chị T gọi điện cho Chị H và làm việc với nhân viên giao hàng. Tôi có kí nhận số hàng 3000 bộ tại công ty của chị H tuy nhiên do không gọi được xe chở hàng ra bến xe nên chị T để tôi về trước và khoảng 2 giờ sáng chị thuê xe đưa hàng về tận nhà cho tôi. ( Chị T có nói với tôi sau này mọi giao dịch tôi chỉ làm việc với Chị T chứ không thông qua chị H). Do hàng cắt thiếu nên chúng tôi không hoàn thành theo đúng kế hoạch. Đến ngày 9/2/2015 tôi đã giao lên cho Chị T khoảng 1300 bộ thành phẩm và một số công đoạn do cắt thiếu( số tiền đợt 1 là 12.000.000 mười hai triệu). Sau đó bên chị T gởi cho tôi 4.000.000( Bốn triệu đồng) và yêu cầu tôi hoàn thành số hàng còn lại rồi sẽ thanh toán hết số tiền. Đến ngày 12/2/2015 tôi gởi lên toàn bộ số hàng còn lại gồm khoảng 1400 bộ và số vải còn dư. (Số tiền đợt 2 là 12.000.000).Tuy nhiên khi xe gần đến bến tôi gọi cho chị T ra nhận hàng thì chị T trả lời là bây giờ không thể ra nhận hàng được và yêu cầu tôi chở hàng về khi nào giải quyết mâu thuẫn nội bộ xong trong vòng ba ngày thì sẽ nhận lại số hàng đó. Sau 3 ngày tôi có liên lạc với chị T thì chị T cứ hứa hẹn mãi cho đến nay đã hơn 6 tháng. Trong thời gian qua tôi cố gắng liên lạc nhưng chị T phủ nhận và bảo số hàng đó là của Chị H chứ không phải của chị T nhưng số điện thoại của chị H thì không liên lạc được và tôi khẳng định đó là hàng của chị T còn chị H chỉ hợp đồng để cắt hàng thôi.

Kính thưa luật sư, trong trường hợp này tôi phải xử lý như thế nào? Tôi có thể khởi kiện chị T hay không khi giữa tôi và chị T chỉ thỏa thuận bằng miệng? Hoặc làm thế nào để bắt chị T nhận hàng và thanh toán toàn bộ số tiền chị T còn thiếu (20.000.000). Mong quý luật sư giải đáp và giúp đỡ.

Tôi xin chân thành cám ơn!

 

>> 

 

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã gửi thắc mắc đến Công ty Xin giấy phép, căn cứ vào các thông tin bạn cung cấp xin tư vấn như sau:

1. Cơ sở pháp lý:

 (văn bản mới: )

 sửa đổi bổ sung 2011 (văn bản mới: )

2. Nội dung tư vấn:

Thứ nhất về hiệu lực của hợp đồng gia công miệng giữa bạn và chị T.

Điều 401, Bộ luật dân sự có quy định về hình thức của hợp đồng dân sự nói chung như sau:

“1. Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định đối với loại hợp đồng đó phải được giao kết bằng một hình thức nhất định.

2. Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng kí hoặc phải xin phép thì phải tuân theo các quy định đó.

Như vậy hợp đồng gia công giữa bạn và chị T được giao kết bằng vẫn có hiệu lực và phát sinh quyền và nghĩa vụ cho các bên. 

Điều 549 Bộ luật dân sự 2005 có quy đinh về nghĩa vụ của bên đặt gia công như sau:

“Điều 549. Nghĩa vụ của bên đặt gia công

Bên đặt gia công có các nghĩa vụ sau đây:

1. Cung cấp nguyên vật liệu theo đúng số lượng, chất lượng, thời hạn và địa điểm cho bên nhận gia công, trừ trường hợp có thoả thuận khác; cung cấp các giấy tờ cần thiết liên quan đến việc gia công;

2. Chỉ dẫn cho bên nhận gia công thực hiện hợp đồng;

3. Trả tiền công theo đúng thoả thuận.”

Như vậy việc chị T không chịu nhận hàng và trả tiền cho bạn theo đúng thỏa thuận là trái với quy định của pháp luật và xâm phạm đến quyền và lợi ích của bạn.

Khoản 2 Điều 56 bộ luật tố tụng dân sự 2004 sửa đổi bổ sung 2011 quy định như sau:

” Điều 56. Đương sự trong vụ án dân sự

2. Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người khởi kiện, người được cá nhân, cơ quan, tổ chức khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm phạm.

Cơ quan, tổ chức do Bộ luật này quy định khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách cũng là nguyên đơn.”

Theo đó chị T đã có hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của bạn nên theo quy định trên bạn có quyền khởi kiện chị T ra Tòa án nhân dân cấp huyện nơi chị T cư trú, sinh sống để yêu cầu giải quyết. Trường hợp, bạn không có hợp đồng gia công bằng văn bản, bạn có thể cung cấp cho Tòa án những tài liệu, giấy tờ khác để chứng minh cho hợp đồng gia công có xảy ra giữa hai bên. 

Trên đây là thư tư vấn của chúng tôi. Chúng tôi hy vọng rằng, ý kiến tư vấn của chúng tôi sẽ giúp làm sáng tỏ các vấn đề mà bạn đang quan tâm. Trên từng vấn đề cụ thể, nếu bạn cần tham khảo thêm ý kiến chuyên môn của chúng tôi, xin hãy liên hệ trực tiếp với chúng tôi theo địa chỉ email hoặc qua Tổng đài tư vấn: .

Trân trọng./.

Bộ phận dân sự – Minh Khuê 

Nếu bạn cần thêm thông tin xin đặt câu hỏi vào ô hỏi đáp bên dưới để chúng tôi có thể hỗ trợ cho bạn nhiều hơn. Xin chân thành cảm ơn.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *